Lao xao sóng bủa dưới thoàn
Vắng em một bữa ăn vàng không ngon
Tìm kiếm "sông Bạch Đằng"
-
-
Chừng nào trời nọ bể hai
-
Bờ sông khúc lở khúc bồi
Bờ sông khúc lở khúc bồi
Kiếm nơi quạnh vắng trao lời với anh -
Sóng sau xô sóng trước
Sóng sau xô sóng trước
-
Ngày ngày ra đứng ngoài sông
Ngày ngày ra đứng ngoài sông
Giả vờ đi tắm mà trông thấy nàng -
Mênh mông sông rộng cồn dài
-
Gá duyên khó chọn vừa đôi
-
Anh ơi! Sông em dò rồi, em mới lội
-
Qua đò khinh sóng
Qua đò khinh sóng
-
Khoan khoan xin đó buông chèo
-
Qua sông đến bến
Qua sông đến bến
-
Sống ở dương gian không bắt được tay chàng
-
Bên này tình, bên kia nghĩa
Bên này tình, bên kia nghĩa
Không biết thương bên nào
Phải chi tôi sắm được một chiếc tàu
Đi qua đi lại, bên nào cũng thương -
Chiều chiều con nước lên cao
-
Sống khôn chết thiêng
Sống khôn chết thiêng
-
Gọi em gọi đến canh ba
-
Nước còn khi chảy khi ương
-
Nghĩ đời mà chán cho đời
-
Ai đem tôi đến chốn này
Ai đem tôi đến chốn này
Bên kia thì núi bên này thì sông
Ai đem tôi đến đồng không
Để tôi vơ vẩn tôi mong tôi chờ -
Từ khi bước cẳng xuống thoàn
Từ khi bước cẳng xuống thoàn
Sông bao sóng dợn thương nàng bấy nhiêu.
Chú thích
-
- Bủa
- Từ từ Hán Việt bố, nghĩa là giăng ra trên một diện tích rộng lớn (bủa lưới, vây bủa, sóng bủa...).
-
- Thoàn
- Thuyền (cách phát âm của người Nam Bộ ngày trước).
-
- Bể
- Vỡ (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Vông đồng
- Loài cây tỏa cành rộng, tạo nhiều bóng mát, thân có nhiều gai, cành xốp dễ gãy đổ khi gặp gió lớn. Hoa màu đỏ, hoa đực mọc thành chùm dài, hoa cái mọc đơn độc tại các nách lá. Quả vông đồng thuộc dạng quả nang, khi khô sẽ nứt ra thành nhiều mảnh, tạo ra tiếng nổ lách tách.
-
- Cồn
- Đảo nhỏ và thấp. Ở miền Trung và Nam Bộ, cồn còn được gọi là cù lao hoặc bãi giữa, là dải đất hình thành ở giữa các con sông lớn (sông cái) nhờ quá trình bồi đắp phù sa lâu năm.
-
- Gá duyên
- Kết thành nghĩa vợ chồng.
-
- Chà
- Cành cây có nhiều nhánh nhỏ, thường dùng để rào hoặc thả dưới nước cho cá đến ở. Miền Trung có chỗ gọi là nè (cành nè, cây nè).
-
- Cặm
- Cắm, ghim một vật gì xuống, thường còn để một phần ló ra (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Cội
- Gốc cây.
-
- Hiệp
- Họp, hợp (sum họp, hòa hợp) (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Dương gian
- Cõi dương, thế giới của người sống, đối lập với cõi âm hay âm phủ là thế giới của người chết.
-
- Âm phủ
- Cũng gọi là âm ty, âm cung, một khái niệm trong tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc. Theo đó, linh hồn của người chết sẽ được đưa đến âm phủ, được luận xét công tội khi còn là người trần, sau đó tuỳ mức độ công tội mà được đưa đi đầu thai (thành người hoặc vật) hoặc phải chịu các hình phạt khủng khiếp. Trong văn hoá Trung Hoa và Việt Nam, âm phủ cũng có hệ thống như trần gian: đứng đầu âm phủ là Diêm Vương (cũng gọi là Diêm La Vương, nên âm phủ còn có tên là Điện Diêm La), dưới là các phán quan, cuối cùng là các quỷ dạ xoa.
-
- Hàng
- Quan tài (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Con nước
- Cũng gọi là ngọn nước, chỉ sự lên xuống của mực nước sông theo thủy triều.
-
- Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
-
- Ương
- (Nước) trôi lờ đờ. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng: Trôi lình bình, dở ròng, dở lớn.
-
- Lươn khươn
- Dây dưa, cố tình kéo dài, trì hoãn việc đáng phải làm ngay.
-
- Dãi
- Phơi ra, trải ra.