Há miệng chờ sung
Tìm kiếm "sứ"
-
-
Bắc Cạn có suối đãi vàng
-
Chim bay bờ suối ven cầu
-
Khoai lang củ sượng, củ trân
-
Em tôi khát sữa bú tay
Dị bản
Em tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép ngày ngày mang ơn
-
Bước lên đất sụp bờ sình
-
Miệng hùm gan sứa
Miệng hùm gan sứa
-
Chim kêu dươi suối, vượn hú trên nhành
-
Chồng người vác súng đòi voi
-
Con nhạn kêu sương, gà thường gáy huỡn
-
Khoai lang củ sượng, củ trân
-
Nửa đêm chó sủa ngõ ngoài
-
Mặt búng ra sữa
Mặt búng ra sữa
-
Miệng còn hơi sữa
Miệng còn hơi sữa
Chưa biết trở đũa mà tài khôn -
Mặt mày sáng sủa như sao
Mặt mày sáng sủa như sao
Ngồi không ăn bám biết bao cho vừa -
Bạc-lê vẽ sứa, em giận đứa măng-tơ
-
Đường dài biết sức ngựa, chuyện lâu rõ lòng người
Đường dài biết sức ngựa
Chuyện lâu rõ lòng người -
Chị em sắm sửa buôn dầu
-
Chim kêu dưới suối Đá Dàn
-
Ai lên thăm suối Đá Dàn
Chú thích
-
- Bắc Cạn
- Hay Bắc Kạn, một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, nổi tiếng với hồ Ba Bể, kì quan thiên nhiên được xem là một trong hai mươi hồ đẹp nhất thế giới. Ngoài ra, ở đây còn có các danh thắng khác như động Puông, động Hua Mạ, động Nàng Tiên, động Nả Phòong, động Ba Cửa, hang Sơn Dương...
-
- Hồ Ba Bể
- Tên một hồ nước ngọt ở tỉnh Bắc Cạn, một trong một trăm hồ nước ngọt lớn nhất thế giới. Hồ nằm trong vườn quốc gia Ba Bể, cũng là một khu vực du lịch sinh thái nổi tiếng.
-
- Dầu
- Để đầu trần (phương ngữ).
-
- Trân
- (Khoai) luộc chưa chín. Đồng nghĩa với sượng.
-
- Thép
- Chực, nhờ của người khác. Bú thép là bú nhờ; ăn thép là ăn chực.
-
- Rày
- Nay, bây giờ (phương ngữ).
-
- Giao ngôn
- Lời hứa, lời ước hẹn (giao nghĩa là bền chặt).
-
- Qua
- Từ người lớn dùng để tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi chút tính chất khách quan, nhưng thân tình (Từ điển từ ngữ Nam Bộ - Huỳnh Công Tín).
-
- Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Đòi
- Đuổi (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Ròi
- Ruồi (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
-
- Huỡn
- Thủng thỉnh, chậm chạp (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Mần
- Làm (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Như mần ăn, mần việc, đi mần...
-
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Nhì Bí.
-
- Bạc-lê
- Nói, phiên âm từ tiếng Pháp parler, .
-
- Măng-tơ
- Nói láo, phiên âm từ tiếng Pháp menter.
-
- Bá vơ
- Vu vơ, không đâu vào đâu (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Sài Gòn
- Nay là thành phố Hồ Chí Minh, thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của nước ta. Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor, thành phố sau đó hình thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông hay Paris Phương Đông. Năm 1954, Sài Gòn trở thành thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và thành phố hoa lệ này trở thành một trong những đô thị quan trọng của vùng Đông Nam Á. Sau 1975, Sài Gòn được đổi tên thành "Thành phố Hồ Chí Minh," nhưng người dân vẫn quen gọi là Sài Gòn.
-
- Quang
- Vật dụng gồm có một khung đáy và các sợi dây quai thắt bằng sợi dây mây (hoặc vật liệu khác) tết lại với nhau, có 4 (hoặc 6) quai để mắc vào đầu đòn gánh khi gánh, và có thể treo trên xà nhà để đựng đồ đạc (thường là thức ăn). Người ta đặt đồ vật (thùng, chum, rổ, rá) vào trong quang, tra đòn gánh vào rồi gánh đi. Quang thường có một đôi để gánh cho cân bằng.
-
- Tiền trinh
- Tiền xu bằng đồng, đục lỗ ở giữa để xâu thành chuỗi.
... Khốn nạn, con mụ tái mặt. Nó vội giơ phắt hai cánh tay lên trời. Thầy quản khoác súng vào vai, dần dần lần các túi áo.
Túi bên phải: một gói thuốc lào. Thầy chẳng nói gì, quẳng toạch xuống đất.
Túi bên trái: bốn đồng trinh.
- À, con này gớm thật, mày vẫn còn trinh à?
Chẳng biết cho là câu nói ý nhị hay nói hớ, thầy quản liếc mắt cười tủm, rồi lại nắn.
(Lập gioòng - Nguyễn Công Hoan)
-
- Đá Dàn
- Tên một con suối phát nguyên ở vùng núi Phú Lạc, thuộc Bình Khê (tỉnh Bình Định), chảy xuống Kiên Ngãi, Thuận Yên, rồi chảy ra suối Thuận Ninh. Suối còn một tên nữa là suối Cây Cóm.
-
- Can trường
- Cũng đọc là can tràng, nghĩa đen là gan (can) và ruột (trường), nghĩa bóng chỉ nỗi lòng, tâm tình.
Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?
(Truyện Kiều)
-
- Câu ca dao được cho là nói về anh hùng Mai Xuân Thưởng.