Tìm kiếm "trồng tre"

  • Ấu nào ấu lại tròn, bồ hòn nào bồ hòn lại méo

    Ấu nào ấu lại tròn, bồ hòn nào bồ hòn lại méo
    Anh mở lời nói khéo, em nghe trắc tréo khó trông
    Đời thuở nhà ai hai gái lấy một chồng
    Tiếc công chờ đợi, lại băng suối vượt đồng đến đây

  • Làng ta phong cảnh hữu tình

    Làng ta phong cảnh hữu tình
    Dân cư giang khúc như hình con long
    Nhờ trời hạ kế sang đông,
    Làm nghề cày cấy, vun trồng tốt tươi
    Vụ năm cho đến vụ mười
    Trong làng già trẻ gái trai đua nghề
    Mặt trời lặn mới ra về
    Ngày ngày, tháng tháng, nghiệp nghề truân chuyên
    Dưới dân họ, trên quan viên
    Công bình giữ mực cầm quyền thẳng ngay
    Bây giờ gặp hội chẳng may
    Khi thời hạn hán, khi hay mưa dầm
    Khi thời gió bão ầm ầm
    Đồng điền thóc lúa mười phần được ba
    Lấy gì cung ứng can qua
    Lấy gì lo việc trong nhà cho đương
    Lấy gì sưu thuế phép thường
    Lấy gì hỗ trợ cho đường làm ăn
    Trời làm khổ cực hại dân
    Vì mùa mất mát trăm phần lao đao

  • Bảo nhau gặt lúa vội vàng

    Bảo nhau gặt lúa vội vàng
    Mang về nhặt, suốt, luận bàn thóc dôi
    Người thì nhóm bếp bắc nồi
    Người đem đãi thóc để rồi đi rang
    Người đứng cối, kẻ giần sàng
    Nghe canh gà gáy phàn nàn chửa xong
    Trong làng già trẻ thong dong
    Sớm khuya bện chổi chớ hòng rỗi tay

  • Nghề làm mỏ là nghề cực khổ

    Nghề làm mỏ là nghề cực khổ
    Dấn thân vào những chỗ hang sâu
    Quanh năm cơm nắm nước bầu
    Trời xanh mây biếc trên đầu biết chi
    Dưới lò giếng lần đi từng bước
    Đào khoét ra mới được đồng công
    Suốt ngày cặm cụi lao lung
    Than già, đá rắn cũng không quản gì
    Tay cầm cuốc, mặt thì cúi gập
    Lưng gò vào như gấp làm đôi
    Loanh quanh xoay xở hết hơi
    Tấm thân như hãm vào nơi ngục tù
    Mãi đến lúc sương mù ngả bóng
    Mới là giờ vội vã trèo lên
    Trong ra non nước hai bên
    Biết mình còn sống ở trên cõi trần.

  • Mẹ già như chuối ba hương

    Mẹ già như chuối ba hương
    Như xôi nếp mật, như đường mía lau
    Đường mía lau càng lâu càng ngát
    Xôi nếp mật ngào ngạt hương say
    Ba hương lây lất tháng ngày
    Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi
    Mẹ già như áng mây trôi
    Như sương trên cỏ, như lời hát ru
    Lời hát ru vi vu trong gió
    Sương trên cỏ khó vỡ dễ tan
    Mây trôi lãng đãng trên ngàn
    Gió đưa tan, hợp, hợp, tan, nao lòng.

  • Mồng năm chợ Ó

    Mồng năm chợ Ó
    Quan họ dồn về
    Hội vui lắm lắm
    Chưa kịp đi tắm
    Chưa kịp gội đầu
    Trầu chửa kịp têm
    Cau chưa kịp bổ
    Miếng lành, miếng sổ
    Miếng lại quên vôi
    Người có yêu tôi
    Thì người cầm lấy
    Các anh đứng đấy
    Thầy mẹ đứng đâu?
    Mời lại xơi trầu
    Mừng cho dâu mới
    Mặt trời đã tối
    Đám hội đã tàn
    Ai có hồng nhan
    Mang ra chơi hội
    Dưới sông múa rối
    Trên bãi trồng vừng
    Một đấu, một thưng
    Bằng nhau như tiện
    Như tiện như tề
    Kẻo thế gian chê
    Chồng cao vợ thấp!

  • Vè chàng Lía

    Lía ta nổi tiếng anh hào
    Sơn hà một góc thiếu nào người hay
    Bạc tiền thừa đủ một hai
    Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
    Làm cho bốn biển anh hùng
    Mến danh đều tới phục tùng chân tay.
    Kẻ nào tàn ác lâu nay
    Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
    Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
    Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
    Nhất nhì những bực nhà quan
    Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên
    Nhà nào nhiều bạc dư tiền
    Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu.
    Tuy chàng ở chốn non đầu
    Nhưng mà lương thực vật nào lại không
    Lâu la ngày một tụ đông
    Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai
    Mọi người trên dưới trong ngoài
    Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn
    Tiếng tăm về đến trào đàng
    Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an.
    Nam triều chúa ngự ngai vàng
    Bá quan chầu chực hai hàng tung hô
    Có quan ngự sử bày phô
    Tâu lên vua rõ lai do sự tình
    Đem việc chàng Lía chiêu binh
    Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng
    Nào khi Lía phá xóm làng
    Đến khi lên núi dọc ngang thế nào
    Kể tên những bậc phú hào
    Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài
    Vua ngồi nghe rõ một hai,
    Đập bàn, vỗ án giận rày thét la:
    – Dè đâu có đứa gian tà
    Giết người, đoạt của thiệt là khó dung
    Truyền cho mười vạn binh hùng
    Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng
    Đại quân vâng lệnh Nam hoàng
    Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong
    Gập ghềnh bao quản núi non
    Dậy trời sát khí quân bon lên rừng.

  • Đạo nào cao bằng đạo can trường

    Đạo nào cao bằng đạo can trường,
    Chồng mà xa vợ đoạn trường trời ơi.
    Bấy lâu nay mình một ngả tui một nơi,
    Ngày nay gặp mặt giải vơi cơn sầu.
    Trống tam canh vội đổ trên lầu,
    Mình có chồng rồi tôi nói cơ cầu làm chi.
    Miệng thế gian ngôn dực trường phi,
    Còn lo phụ mẫu sao bất thành không ai.
    Bữa này mười một mai là mười hai,
    Mình tui ở lại với ai bây giờ?

  • Buổi mai ăn cơm cho no

    Buổi mai ăn cơm cho no
    Đi ra chợ Gio
    Mua chín cái tréc
    Đắp chín cái lò
    Cái nấu canh ngò
    Cái kho củ cải
    Cái nấu cải chuối xanh
    Cái nấu cá kình
    Cái rim thịt vịt
    Cái hầm thịt gà
    Cái nấu om cà
    Cái kho đu đủ
    Cái nấu củ khoai tây
    Nghe tin anh học trường này
    Bồn chồn trong dạ bỏ chín cái tréc này không coi.

    Dị bản

    • Buổi mai ngủ dậy
      Ăn một bụng cơm no
      Chạy ra chợ nọ
      Mua chín cái trách
      Đặt quách lên lò
      Một cái kho ngò
      Hai cái kho cải
      Ba cái kho nải chuối xanh
      Bốn cái nấu canh rau má
      Năm cái kho cá chim chim
      Sáu cái kho rim thịt vịt
      Bảy cái làm thịt con gà
      Tám cái kho cà đu đủ
      Chín cái kho củ môn tây.

Chú thích

  1. Củ ấu
    Một loại củ có vỏ màu tím thẫm, có hai sừng hai bên, được dùng ăn độn hoặc ăn như quà vặt.

    Củ ấu

    Củ ấu

  2. Bồ hòn
    Cây to cùng họ với vải, nhãn, quả tròn, khi chín thì thịt quả mềm như mạch nha. Quả bồ hòn có vị rất đắng, có thể dùng để giặt thay xà phòng.

    Quả bồ hòn

    Quả bồ hòn

  3. Giang khúc
    Khúc sông quanh co.
  4. Con long
    Con rồng.
  5. Vụ năm
    Vụ lúa chiêm, gieo cấy vào cuối tháng mười âm lịch, thu hoạch vào đầu tháng năm âm lịch.
  6. Vụ mười
    Vụ lúa mùa, gieo cấy vào cuối tháng năm âm lịch, thu hoạch vào đầu tháng mười âm lịch.
  7. Có bản chép: Trời ra: gắng, trời lặn: về.
  8. Truân chuyên
    Vất vả. Từ này có gốc từ từ Hán Việt truân chiên 迍邅 nghĩa là "Vướng víu, chật vật không bước lên được" (theo Thiều Chửu).
  9. Dân họ
    Dân chúng.
  10. Quan viên
    Chỉ chung những người có địa vị hoặc chức vụ trong làng xã.
  11. Mực
    Mẫu mực, khuôn phép.
  12. Có bản chép: cho hay.
  13. Đồng điền
    Đồng ruộng.
  14. Có bản chép: đồng ruộng.
  15. Can qua
    Can 干 chữ Hán nghĩa là cái mộc để đỡ. Qua 戈 là cây mác, một loại binh khí ngày xưa. Can qua chỉ việc chiến tranh.
  16. Đương
    Trọn vẹn, đầy đủ.
  17. Sưu thuế
    Sưu (hay xâu) là số ngày người dân phải tham gia lao động công ích, nhưng cho phép nộp bằng tiền để thuê người làm thay; thuế là số tiền (hoặc hiện vật) người dân phải nộp cho chính quyền.
  18. Phép thường
    Quy định thông thường.
  19. Hỗ trợ
    Giúp đỡ lẫn nhau. Từ Hán Việt này được cấu thành từ hai chữ hỗ (lẫn nhau) và trợ (giúp đỡ). Hiện nay hỗ trợ thường được dùng với nghĩa "giúp đỡ" từ một phía (ví dụ: hỗ trợ học sinh học tập). Đây là một cách dùng sai.
  20. Lao đao
    Vất vả khó khăn từ nhiều phía.
  21. Suốt
    Tuốt: tuốt lúa, tuốt lá... (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  22. Dôi
    Còn dư ra, còn thừa.
  23. Đãi
    Nhúng các chất trộn lẫn với nhau xuống nước, gạn lấy chất nặng, còn chất nhẹ cho trôi đi (đãi cát, đãi vàng...).

    Đãi cát tìm vàng

    Đãi cát tìm vàng

  24. Cối xay
    Dụng cụ nhà nông dùng để bóc vỏ hạt thóc, tách trấu ra khỏi hạt gạo, hoặc để nghiền các hạt nông sản. Ngày nay cối xay ít được sử dụng vì được thay thế bằng các loại máy xay công nghiệp có hiệu suất cao hơn.

    Xay lúa

    Xay lúa

  25. Giần
    Đồ đan bằng tre, hình tròn và dẹt, mặt có lỗ nhỏ, dùng làm cho gạo đã giã được sạch cám (tương tự như cái sàng). Hành động dùng giần để làm sạch gạo cũng gọi là giần.

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
    Đất Nước có từ ngày đó

    (Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)

    Xay, giã, giần, sàng

    Xay, giã, giần, sàng

  26. Sàng
    Đồ đan bằng tre, hình tròn, lòng nông, có lỗ nhỏ và thưa, thường dùng để làm cho gạo sạch thóc, trấu và tấm. Hành động dùng cái sàng mà lắc cho vật vụn rơi xuống, vật to còn lại cũng gọi là sàng.

    Sàng gạo

    Sàng gạo

  27. Lò giếng
    Loại lò đục sâu xuống (thẳng đứng hoặc nghiêng) trong các mỏ than.
  28. Chuối ba hương
    Còn gọi là chuối bà hương, một loại chuối lùn, quả khi chín rất dễ rụng.
  29. Xuân Ổ
    Tên Nôm là làng Ó, một làng nay là hai thôn Xuân Ổ A và Xuân Ổ B thuộc phường Bắc Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, xưa thuộc tổng Khắc Niệm, huyện Tiên Du. Hằng năm vào mồng 5 Tết, làng mở hội thờ cúng Thành hoàng và hát quan họ. Chợ làng trước đây gọi là chợ Ó, nay không còn. Trước ngày vào đám, chập tối ngày mùng 4, làng nhóm họp chợ phiên. Phiên chợ Ó vừa tan, nhiều quán trầu của các cụ bà mọc lên, theo đó ''liền anh, liền chị'' mời nhau vào ngồi xơi trầu, rồi bắt đầu cuộc hát (xem thêm).
  30. Quan họ
    Lối hát dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ, tập trung ở vùng văn hóa Kinh Bắc, tức tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Quan họ được chia làm hai loại: Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe, đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ, không có nhạc đệm và chủ yếu là hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội ở các làng quê. Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ," có nhiều hình thức biểu diễn phong phú hơn, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa, được biểu diễn trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội...

    Năm 2009, cùng đợt với ca trù, quan họ được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế và không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.

    Giã bạn - Người ơi người ở đừng về - Đến hẹn lại lên (Quan họ Bắc Ninh)

  31. Má hồng
    Từ chữ hồng nhan (cũng nói là hường nhan ở Nam Bộ), từ dùng trong văn thơ cổ chỉ người con gái đẹp.

    Phận hồng nhan có mong manh
    Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương

    (Truyện Kiều)

  32. Đấu
    Đồ dùng để đong thóc gạo ngày trước, bằng khoảng một lít hiện nay.
  33. Thưng
    Đồ đo lường, bằng một phần mười cái đấu ("thưng" do chữ "thăng" 升 đọc trạnh ra).

    Thưng bằng đồng

    Thưng bằng đồng

  34. Tiện
    Gọt vòng quanh cho đứt hoặc tạo thành khía.
  35. Tề
    Cắt bớt.
  36. Lía
    Dân gian còn gọi là chàng Lía, chú Lía, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống ách thống trị của nhà Nguyễn vào thế kỉ 18 nổ ra tại Truông Mây, Bình Định. Có giả thuyết cho rằng ông tên thật là Võ Văn Doan, quê nội huyện Phù Ly (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ngày nay), quê ngoại làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây Sơn). Lía tập hợp dân nghèo nổi dậy, chọn Truông Mây (Hoài Ân, Bình Định) làm căn cứ, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Tương truyền sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ông uất ức bỏ lên núi và tự sát.
  37. Anh hào
    Anh hùng hào kiệt, người có tài năng, chí khí. Hội anh hào là dịp để anh hào gặp và thi thố lẫn nhau để lập nên những công trạng hiển hách.

    Đường đường một đấng anh hào,
    Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.

    (Truyện Kiều)

  38. Sơn hà
    Núi sông (từ Hán Việt). Từ cũ, nghĩa rộng dùng để chỉ đất nước.

    Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
    Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

    (Lý Thường Kiệt)

    Dịch thơ:

    Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Rành rành định phận tại sách trời
    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

  39. Chiêu binh mãi mã
    Chiêu mộ binh lính và mua ngựa chiến (để chuẩn bị cho chiến tranh). Hiểu rộng ra là tập hợp lực lượng, vây cánh.
  40. Dung
    Biết là việc xấu, sai nhưng vẫn để tồn tại.
  41. Lâu la
    Từ chữ Hán 嘍囉, chỉ quân lính, tay chân của giặc cướp.
  42. Trào đàng
    Triều đình (cách nói cũ của Trung và Nam Bộ).

    Trạng nguyên tâu trước trào đàng,
    Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.

    (Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)

  43. Bá quan
    Từ chữ Hán Việt 百 (trăm), và quan 官 (quan lại), chỉ tất cả các quan lại trong triều đình. Cũng nói là bá quan văn võ.
  44. Ngự sử
    Tên chung của một số chức quan có nhiệm vụ giám sát từ cấp cao nhất (vua) đến các cấp quan lại.
  45. Lai do
    Nguyên do sự việc.
  46. Đàng
    Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
  47. Phú hào
    Những người giàu và có thế lực ở nông thôn thời phong kiến (từ Hán Việt).
  48. Rày
    Nay, bây giờ (phương ngữ).
  49. Ngờ (phương ngữ Nam Bộ).
  50. Binh nhung
    Binh 兵 (binh lính) và nhung 戎 (vũ khí, binh lính). Chỉ binh khí, quân đội, hoặc hiểu rộng ra là việc quân.
  51. Nam hoàng
    Vua nước Nam.
  52. Quản
    E ngại (từ cổ).
  53. Cá trê
    Tên một họ cá da trơn nước ngọt phổ biến ở nước ta. Cá trê có hai râu dài, sống trong bùn, rất phàm ăn. Nhân dân ta thường đánh bắt cá trê để làm các món kho, chiên hoặc gỏi.

    Cá trê

    Cá trê

  54. Cá ngát
    Một loại cá sống ở biển và những vùng nước lợ, có da trơn, thân hình giống như con cá trê, đầu to có râu và hai chiếc ngạnh sắc nhọn hai bên, thân dài đuôi dẹt. Cá ngát khi đã trưởng thành thường to bằng cán dao đến cổ tay người lớn. Ngư dân đánh bắt cá ngát bằng cách giăng lưới hoặc câu nhưng hiệu quả nhất là giăng lưới ở những luồng nước đục, chảy nhẹ vì chỗ này thường có nhiều cá. Cá ngát có thể chế biến thành nhiều loại thức ăn, nhưng nổi tiếng nhất có lẽ vẫn là món canh chua cá ngát.

    Canh chua cá ngát

    Canh chua cá ngát

  55. Liễn
    Dải vải hoặc giấy, hoặc tấm gỗ dài dùng từng đôi một, trên có viết câu đối, thường mang ý nghĩa tốt đẹp, cầu hạnh phúc may mắn cho chủ nhà. Liễn thường được treo song song với nhau, gọi là cặp (đôi) liễn.

    Liễn

    Liễn

  56. Một loại nhạc khí thường làm bằng gỗ, khi gõ có tiếng vang. Trong đạo Phật, Phật tử gõ mõ khi tụng kinh. Ở làng quê Việt Nam xưa, khi muốn thông báo gì thì người ta gõ mõ. Người chuyên làm công việc đánh mõ rao việc làng cũng gọi là mõ.

    Mõ

  57. Bụt
    Cách gọi dân gian của Phật, bắt nguồn từ cách phiên âm từ Buddha (bậc giác ngộ - Phật) trong tiếng Ấn Độ.
  58. Cau liên phòng
    Cũng gọi là cau truyền bẹ, một giống cau thân thấp, cho quả quanh năm. Khi ăn trầu, so với giống cau cho quả theo thời vụ thì quả cau liên phòng không đẹp và không ngon bằng. Có nguồn cho rằng có tên như vậy vì giống cau này thường được trồng nhiều cây liên tục nhau thành hàng.

    Nhà em có một giàn giầu,
    Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

    (Tương tư - Nguyễn Bính).

  59. Khúc nôi
    Nỗi lòng tâm sự thầm kín khó nói ra (từ cũ). Cũng nói là khúc nhôi.
  60. Mướp
    Cũng gọi là mướp ta hay mướp gối, loại cây thân leo cho hoa màu vàng, quả dài, khi già thì khô thành xơ. Thân, lá, hoa và quả đều dùng làm rau ăn được. Có loại mướp hương cho quả có mùi thơm đặc biệt.

    Giàn mướp

    Giàn mướp

  61. Hát hố
    Một loại hình sinh hoạt dân gian phổ biến ở vùng đồng bằng Quảng Ngãi. Người hát có thể hát theo bài sẵn có hoặc ứng tác. Hát hố thường gắn liền với việc đồng áng, sinh hoạt ngày mùa như: tát nước, cuốc đất, đập đất, giã gạo, thu hoạch, chế biến bắp, khoai lang, khoai mì... Mở đầu câu hát là “hố khoan lại hò khoan” rồi ngắt nhịp, lúc lấy hơi hay kết thúc câu hát cũng hô lên “hố khoan lại hò khoan”. Không chỉ một mình người hát mà cả người trong nhóm và khác nhóm đều cao giọng “hố, hò” nâng đỡ câu hát, tạo thành giai điệu.
  62. Rầy
    La mắng (phương ngữ).
  63. Đình
    Công trình kiến trúc cổ truyền ở làng quê Việt Nam, là nơi thờ Thành hoàng, và cũng là nơi hội họp của người dân trong làng.

    Đình Tiên Canh (tỉnh Vĩnh Phúc)

    Đình Tiên Canh (tỉnh Vĩnh Phúc)

  64. Cau
    Loại cây nhiều đốt, thân nhỏ và cao vút, có quả dùng để ăn với trầu.

    Cây cau

    Cây cau

    Quả cau và lá trầu

    Quả cau và lá trầu

  65. Can trường
    Cũng đọc là can tràng, nghĩa đen là gan (can) và ruột (trường), nghĩa bóng chỉ nỗi lòng, tâm tình.

    Chút riêng chọn đá thử vàng,
    Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?

    (Truyện Kiều)

  66. Đoạn trường
    Đau đớn như đứt từng khúc ruột (đoạn: chặt đứt, trường: ruột). Theo Sưu thần kí, có người bắt được hai con vượn con, thường đem ra hiên đùa giỡn. Vượn mẹ ngày nào cũng đến ở trên cây gần đầu nhà, kêu thảm thiết. Ít lâu sau thì vượn mẹ chết, xác rơi xuống gốc cây. Người ta đem mổ thì thấy ruột đứt thành từng đoạn.
  67. Canh
    Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
  68. Ăn nói cơ cầu
    Ăn nói rắc rối, phức tạp (phương ngữ Nam Bộ).
  69. Ngôn dực trường phi
    Lời nói có cánh, có thể bay xa.
  70. Phụ mẫu
    Cha mẹ (từ Hán Việt).
  71. Gio Linh
    Một huyện nhỏ của tỉnh Quảng Trị, từng là bờ Nam của vĩ tuyến 17, nơi chia đôi đất nước thành hai miền Bắc - Nam.
  72. Cái tréc
    Cái trách (phương ngữ miền Trung), từ dùng chỉ nồi đất dùng để kho cá.
  73. Ngò
    Còn gọi là ngò rí, rau mùi, loại rau có mùi thơm, thường được trồng làm rau thơm và gia vị.

    Ngò

    Ngò

  74. Trách
    Một loại nồi đất, hơi túm miệng, đáy bầu, hông phình.
  75. Rau má
    Một loại cây thân thảo ngắn ngày, thường được trồng để ăn tươi hoăc sắc lấy nước uống. Nước rau má có tác dụng giải độc, hạ huyết áp, làm mát cơ thể. Lá rau má hình thận, nhỏ bằng đồng xu.

    Rau má

  76. Cù nèo
    Gậy dài thường làm bằng tre, có móc hoặc mấu ở đầu để hái trái cây. Có vùng gọi là cây cù quèo.
  77. Điếm
    Từ Hán Việt, nghĩa rộng là hàng quán, nhà trọ...
  78. Đỉa
    Một loại động vật thân mềm, trơn nhầy, sống ở nước ngọt hoặc nước lợ, miệng có giác hút để châm vào con mồi và hút máu. Tên gọi này có gốc từ từ Hán Việt điệt.

    Con đỉa

    Con đỉa

  79. Dầu
    Dù (phương ngữ Nam Bộ).