Mã nhập cung, Tướng khốn cùng
Mã nhập cung, Tướng khốn cùng
Dị bản
Mã nhập cung, Tướng lùng bùng
Mã nhập cung, Tướng khốn cùng
Mã nhập cung, Tướng lùng bùng
Chẳng trước thì sau lý đào tương hội
Khuyên anh dằn lòng, chớ vội anh ơi!
Hoa thơm mất nhụy đi rồi,
Còn thơm đâu nữa mà người ước ao.
Lờ đờ như người say rượu
Mắt đỏ hoe, phải liệu mà chơi
Anh có vợ chưa phải thưa cho thiệt
Kẻo lầm sao nầy, tội nghiệp cho em
Anh có vợ chưa phải thưa cho thiệt
Đừng để em lầm tội nghiệp bớ anh
Chém cha con mắt lá khoai
Liếc chồng thì ít, liếc trai thì nhiều
Một sông hai nước (Việt - Pháp) không thể thương thuyết,
Bốn tháng ba vua điềm chẳng lành
Sau khi vua Tự Đức mất, quyền hành ở triều đình Huế rơi vào tay Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Trong bốn tháng, từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1983, hai ông đã phế và lập 3 vua: Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc. Câu này ra đời trong hoàn cảnh đó. Cái hay là cuối mỗi câu có tên hai ông: Thuyết và Tường.
Thiên thời nhơn sự lưỡng tương thôi
Đề quých niên hoa mỗi tự nghi
Đa thiểu tráng hoài thù vị liễu
Hưu thiêm di hận đáo nga mi
Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục dịch :
Việc người ngày tạo giục nhau đi,
Tiếng quých kêu xuân đã chắc gì.
Nợ nước nợ non vay chửa trả,
Nợ tình thêm vướng bạn nga mi
Gió mưa là bệnh của Trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
(Tương tư - Nguyễn Bính)
Trong ca dao - dân ca, đạo cang thường thường dùng để chỉ tình cảm vợ chồng.
Theo tôn ti trật tự ngày xưa, ngồi phản phải xét ngôi thứ, chứ không phải ai muốn ngồi phản nào cũng được. Bậc trưởng thượng thường ngồi giữa phản, vai vế thấp hơn ngồi ở mé bên. Tương tự, chỉ có bậc trưởng thượng mới được ngồi phản giữa, đặt ngay chính giữa nhà. Vai vế thấp hơn phải ngồi phản chái đặt ở gian chái tây hướng ra vườn.