Ví dầu tình thiếp dở dang
Thì cho thiếp mượn đò ngang thiếp về
Ví dầu tình thiếp dở dang
Dị bản
Ví dầu tình đã phụ phàng
Xin đưa thiếp xuống đò ngang thiếp về
Ví dầu tình đã phụ phàng
Xin đưa thiếp xuống đò ngang thiếp về
Làm chị phải lành
Làm anh phải khó
Lấy chồng hay chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên con bò
Có chồng biết chữ là tiên
Có chồng dốt nát là duyên con bò
Thương nhau từ thuở méo trời
Bây giờ méo đất phải rời nhau ra
Mẹ gà, con vịt
Con tôm nó bảo con cò
Ngày nào mày cũng đi mò chúng tao
Nhịn đói nằm co còn hơn ăn no vác nặng
Tiền không chân, xa gần đi khắp
Ăn cơm Phật lật đật cả ngày
Ăn cơm nhà bay thẳng tay mà ngủ
Dời củi bớt lửa không cần
Cháy nhà chạy chữa gội nhuần ơn sâu
Nuôi quân ta nộp lúa vàng
Quân no đánh thắng, giết ngàn giặc Tây
Tình chồng vợ anh không tưởng tới
Nghĩa sinh thành anh chẳng kể chi
Sao anh bất thức bất tri
Anh đi lính mộ được gì đâu na
Anh nghe em hỏi đây mà
Ai sinh ai đẻ anh ra thành người
Sao anh không sợ người cười
Cái nòi lính mộ mấy đời sướng thân
Hỏi anh anh phải phân trần
Cha già mẹ yếu đỡ đần cậy ai?
Tình non nghĩa nước bao ngày
Con trăng cõi Bắc đã đầy nhớ thương
1. Theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn Phương Đình dư địa chí (1900) thì: tục truyền sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế. Sách Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự.
2. Theo học giả Trương Vĩnh Ký: Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer: Kompong: bến, Kon Krabei: con trâu. (Le Cisbassac, tr. 192). Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ý rằng: Bến Nghé là cái bến mà "người ta thường cho trâu, bò ra tắm."
Trước đây, nhắc đến vùng Đồng Nai - Bến Nghé nghĩa là nhắc đến cả vùng đất Nam Bộ.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
(Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu)
Đỉnh Hoa biểu từ khơi bóng hạc
Gót Nam Du nhẹ bước tang bồng
(Nhị thập tứ hiếu)