Thuở bé em có hai sừng
Đến tuổi nửa chừng, mặt đẹp như hoa
Ngoài hai mươi tuổi đã già
Quá ba mươi tuổi, mọc ra hai sừng
Ngẫu nhiên
-
-
Thương nhau chẳng lấy được nhau
-
Đêm nằm nghe giọng anh than
Đêm nằm nghe giọng anh than
Như ai bưng chén nước đổ vào gan lạnh lùng -
Con nít may ra, bà già may vô
Dị bản
-
Khó mà xứ biển em theo
-
Trầu em buộc dải yếm đào
-
Đường kẻ Khoai vừa thanh vừa mát
-
Đó đủ đôi cùng ngồi một ngựa
-
Chích chòe chích chòe
-
Một mình ăn hết bao nhiêu
Một mình ăn hết bao nhiêu
Mò cua bắt ốc cho rêu bám đùi -
Trên đầu đội mũ giang sơn
-
Nâng niu bú mớm đêm ngày
-
Bị vặn bị trói bị gài
-
Sầu căn sầu nợ mình ôi
-
Ban mai ra đứng trông mây, thấy mây giăng mất chỗ
-
Chàng về em dặn lời này
-
Chuột sa chĩnh gạo
Dị bản
Chuột sa hũ nếp
-
Mẹ ơi đừng mắng con yêu
-
Tài gia là cha ăn cướp
-
Đôi ta như đôi đũa mới so
Đôi ta như đôi đũa mới so
Nằm chung một chỗ còn lo nỗi gì
Chú thích
-
- Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.
-
- Tra
- Già (phương ngữ Bắc Trung Bộ). Kẻ tra nghĩa là người già.
-
- Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
-
- Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
-
- Tri kỉ
- Người thân thiết, hiểu rõ mình, từ chữ tri (biết) và kỉ (mình).
-
- Lạc Đô
- Tên nôm là làng Khoai, một làng thuộc xã Thiệu Đô, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nằm bên bờ sông Chu.
-
- Vận Quy
- Cũng gọi là làng Vận, một làng nay thuộc xã Thiệu Vận, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
-
- Nguyệt Lãng
- Cũng gọi là làng Lãng, một làng nay thuộc địa phận xã Thiệu Lý, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
-
- Bộ ngựa
- Gọi tắt là ngựa, còn gọi là phản hay bộ ván (phương ngữ Nam Bộ), đồ dùng để nằm, gồm hai hay ba tấm ván dày ghép lại với nhau bằng mộng. Bộ ngựa được kê trên hai phiến gỗ dài, có hai chân ở hai đầu, miền Bắc gọi là cái mễ, miền Nam gọi là cái chân bò.
-
- Chích chòe
- Tên chung của một số loài chim nhỏ, đuôi dài, ăn sâu bọ. Các loại chính chòe thường gặp là chích chòe than (lông màu đen, có đốm trắng), chích chòe lửa (có bụng màu gạch đỏ như lửa), chích chòe đất... Hiện nay chích chòe thường được nuôi làm cảnh.
-
- Hồng
- Loại cây cho trái, khi chín có màu vàng cam hoặc đỏ. Tùy theo giống hồng mà quả có thể giòn hoặc mềm, ngọt hoặc còn vị chát khi chín.
-
- Tày
- Bằng (từ cổ).
-
- Rế
- Vật dụng làm bếp, thường đan bằng tre nứa, hình tròn, để đỡ nồi chảo cho khỏi bỏng và dơ tay.
-
- Căn nợ
- Món nợ nần của đôi trai gái từ kiếp trước phải trả trong kiếp này, theo giáo lí nhà Phật.
-
- Thác
- Chết, mất, qua đời (từ Hán Việt).
-
- Hà
- Sông (từ Hán Việt).
-
- Rày
- Nay, bây giờ (phương ngữ).
-
- Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Phước Kiều
- Tên một làng nay thuộc thôn Thanh Chiêm, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, hình thành từ hơn 400 năm nay. Làng này nổi tiếng cả nước với nghề đúc các loại nhạc cụ truyền thống như thanh la, chiêng, tạ... và các vật dụng, hàng mĩ nghệ bằng đồng.
-
- Tài gia
- Tài chủ, chủ tài sản, còn hiểu là người có của cho vay.