Từ khi anh thọ lãnh chữ vàng
Giao cha mẹ lại cho nàng thọ nuôi
Ngẫu nhiên
-
-
Đại mộc lưu giang, bất đắc hồi cố
-
Anh đi phụ rẫy trúc mai
-
Lấy vợ kiêng tuổi đàn bà
Lấy vợ kiêng tuổi đàn bà
Làm nhà kiêng tuổi đàn ông -
Người khôn con mắt dịu hiền
Người khôn con mắt dịu hiền
Người dại con mắt láo liên nhìn trời -
Ai đi đâu đó một mình
Ai đi đâu đó một mình,
Chờ ta đi với chung tình làm đôi
Hay là ai đã có nơi,
Nói cho ta biết thì thôi đừng chờ -
Khuất bóng cây, anh nhìn không rõ
Dị bản
-
Điều lành khó nhớ, điều dở khó quên
Điều lành khó nhớ
Điều dở khó quên -
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Già thì già tóc già tai
Già thì già tóc già tai
Già răng già lợi, đồ chơi không già -
Gió khan phải cạn ruộng đồng
-
Sột soạt như lá chuối khô
Sột soạt như lá chuối khô
Nghe đồn xóm dưới ba cô chưa chồng
Cô Mơ, cô Mận, cô Hồng
Ba cô chưa chồng, tôi thuận cả ba -
Mấy khi rồng gặp mây đây
Mấy khi rồng gặp mây đây
Để rồng than thở với mây vài lời
Nữa mai rồng ngược mây trôi
Biết bao giờ lại nối lời rồng mây -
Nhạn lạc bầy ba ngõ kêu sương
-
Nước lên cho cá lên theo
Nước lên cho cá lên theo
Hai bên cha mẹ đói nghèo cả haiDị bản
-
Ba cô đi lễ nhà thờ
-
Mồng tám tháng tư không mưa
-
Câm hay ngóng, ngọng hay nói
Câm hay ngóng, ngọng hay nói
-
Trong đen ngoài trắng như ngà
-
Nhâm Tý, Quý Sửu, Mậu Thân
-
Nón không quai như thuyền không lái
Chú thích
-
- Chữ vàng
- Chữ của nhà vua phong chức tước.
-
- Trúc mai
- Trong văn chương, trúc và mai thường được dùng như hình ảnh đôi bạn tình chung thủy, hoặc nói về tình nghĩa vợ chồng.
Một nhà sum họp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông
(Truyện Kiều)
-
- Lụy
- Nước mắt (phương ngữ Nam Bộ, nói trại từ lệ).
-
- Loan
- Theo một số điển tích thì phượng hoàng là tên chung của một loại linh vật: loan là con mái, phượng là con trống. Cũng có cách giải nghĩa khác về loan, mô tả loan là một loài chim giống với phượng hoàng. Trong văn thơ cổ, loan và phụng thường được dùng để chỉ đôi vợ chồng hoặc tình cảm vợ chồng (đèn loan, phòng loan...)
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai
(Truyện Kiều)
-
- Gió khan
- Gió khô, không có hơi nước để kéo theo mưa.
-
- Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
-
- Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
-
- Hèo
- Một loại cây thuộc họ cau, thân thẳng có nhiều đốt, thường dùng làm gậy. Gậy làm bằng thân cây hèo cũng được gọi là hèo.
-
- Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
-
- Nhất vương nhị đế
- Một cách gọi ba anh em nhà Tây Sơn, gồm Đông Định Vương Nguyễn Lữ, Trung ương hoàng đế Nguyễn Nhạc và Quang Trung hoàng đế Nguyễn Huệ.
-
- Quy tiên
- Về chầu tổ tiên, nghĩa là chết đi. Từ này thường dành cho người già hoặc người đáng kính trọng.
-
- Nón quai thao
- Còn gọi là nón ba tầm, nón thúng, một loại nón xưa của phụ nữ đồng bằng Bắc Bộ. Nón làm bằng lá gồi hoặc lá cọ, mặt nón rộng 70 - 80 cm, hình bánh xe, đỉnh bằng, có vành cao độ 10 - 12 cm. Mặt dưới nón gắn một vành tròn vừa đầu người đội, gọi là khua. Quai nón dài, khi đội thì thả võng đến thắt lưng, người đội dùng tay giữ quai. Quai nón làm bằng từ một 1 tới 8 dây thao đen kết bằng tơ, chỉ, ngoài bọc tơ dệt liên tục. Đời nhà Trần, nón này được cải tiến cho cung nữ đội và gọi là nón thượng.