Nói ra tủi hổ muôn phần
Bốn mùa đông lạnh chẳng gần hơi em
Nói ra tủi hổ muôn phần
Dị bản
Nói ra tủi hổ muôn phần
Ruột dường chỉ thắt, dao dần lá gan
Nói ra tủi hổ muôn phần
Bốn mùa đông lạnh chẳng gần hơi em
Nói ra tủi hổ muôn phần
Ruột dường chỉ thắt, dao dần lá gan
Của đi thay người
Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ
Vui chung từ buổi hàn vi
Sầu riêng từ buổi em đi lấy chồng
Vui chung từ buổi mẹ bồng
Sầu riêng từ buổi lấy chồng đến nay
Ăn miếng trả miếng
Vào thì bẩm bẩm thưa thưa
Ra thì văng tục có chừa ai đâu
Ai ơi muốn hưởng lộc trời,
Trước thờ cha mẹ, sau thời vợ con
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười chúm chím: thưa anh giận gì?
Thưa anh, anh giận em chi?
Muốn lấy vợ bé em thì lấy cho!
Ai về xứ Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
(Huỳnh Văn Nghệ)
Trong thơ văn cổ, Thăng Long cũng được gọi là Long Thành (kinh thành Thăng Long), ví dụ tác phẩm Long Thành cầm giả ca (Bài ca về người gảy đàn ở Thăng Long) của Nguyễn Du.
Thời xưa, các cửa ô là cửa ra vào kinh thành, có cổng ba cửa, có vọng lầu, xây bằng gạch vồ nâu đỏ. Đến nay, chỉ sót lại duy nhất Ô Quan Chưởng là giữ được hình tích cũ. Các cửa ô còn lại chỉ còn là địa danh của một số phố phường.
Đây là một địa điểm du lịch rất đẹp, đồng thời nổi tiếng với đặc sản gỏi tỏi, được mệnh danh là "vương quốc tỏi."
Thiếp danh đưa đến lầu hồng
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa
(Truyện Kiều)