Thói đời thương miệng giúp môi
Toàn câu hứa hẹn, mấy lời bâng quơ
Ngẫu nhiên
-
-
Tấc đất tấc vàng
-
Người bệnh chẳng chịu kiêng mồm
Người bệnh chẳng chịu kiêng mồm
Làm cho thầy thuốc chạy chồn cả chân -
Mã nhập cung, Tướng khốn cùng
Mã nhập cung, Tướng khốn cùng
Dị bản
Mã nhập cung, Tướng lùng bùng
-
Mống bên đông, vồng bên tây
-
Gọi đò chẳng thấy đò sang
Gọi đò chẳng thấy đò sang
Lội thì ướt áo, thương nàng xa xôi -
Trồng hường quên đậy quên che
-
Ông tiền ông thóc, ông cóc gì ai
Ông tiền ông thóc, ông cóc gì ai!
-
Quả gì không ở cây nào
-
Thà rằng ăn cá giếc trôi
Dị bản
Thà rằng ăn cá giếc trôi
Chẳng thèm lấy khách có đuôi trên đầu
-
Canh tàn gà gáy hết đêm
-
Yêu nhau nên phải ra đi
-
Em về em lại ra ngay
Em về em lại ra ngay
Chàng đừng tưởng gió trông mây mà phiền -
Tháng ba đói hoa con mắt
-
Đứng xa mà ngắm gót chân
Đứng xa mà ngắm gót chân
Nhích lại cho gần mà nắm bàn tayDị bản
Đứng xa mà ngắm gót chân
Nhích lại cho gần mà cắn móng tay
-
Lực sĩ xì po
-
Mười người thợ, lo đỡ mọi bề
-
Vợ sư sắm sửa cho sư
-
Ném tiền qua cửa sổ
Ném tiền qua cửa sổ
-
Ở trên rừng có cây một lá
Chú thích
-
- Tấc
- Đơn vị cũ đo diện tích ruộng đất, bằng một phần mười thước, tức bằng 2,4 mét vuông (tấc Bắc Bộ), hoặc 3,3 mét vuông (tấc Trung Bộ).
-
- Mống
- Cầu vồng (phương ngữ).
-
- Dè
- Ngờ (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Cá giếc
- Loại cá trắng nước ngọt, mắt có viền đỏ, thân dẹt hai bên, có màu bạc, sống phổ biến ở ao hồ, ruộng vùng đồng bằng hay vùng cao. Thịt thơm ngon nhưng nhiều xương dăm. Ngoài những món chế biến thông thường, cá giếc còn là một món ăn bài thuốc.
-
- Chú khách
- Một cách gọi người Hoa sống ở Việt Nam. Từ này bắt nguồn từ chữ "khách trú," cũng gọi trại thành cắc chú.
-
- Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
-
- Cố tri
- Người quen biết cũ (từ Hán Việt).
Xưa từng có xóm có làng
Bà con cô bác họ hàng gần xa
Con trâu, con chó, con gà
Đàn cò, lũ sẻ, đều là cố tri.
(Mộc mạc - Võ Phiến)
-
- Hàng Mành
- Một trong các phố cổ ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Theo Phố và đường Hà Nội của tác giả Nguyễn Vĩnh Phúc (NXB Giao thông Vận tải, 2004), phố Hàng Mành ra đời từ hơn một trăm năm trước, do người làng Giới Tế (thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh) di cư đến lập nghiệp, mang theo nghề làm mành cửa cổ truyền của làng Giới Tế.
-
- Hàng Hòm
- Một phố cổ của Hà Nội, thời xưa có nhiều hàng làm nghề sơn gỗ, dần dần phát triển thành bán các loại rương, hòm, tráp bằng gỗ sơn, về sau lại phát triển thêm các mặt hàng mới như va li, cặp da, túi xách. Tên phố vẫn giữ nguyên qua nhiều thời đại, nghề làm hòm vẫn phát triển cho đến sau 1975, chỉ mới mai một gần đây, thay vào đó là nghề bán sơn phát triển mạnh.
-
- Xì po
- Phát âm từ tiếng Anh "sport" (thể thao).
-
- Mũ tỳ lư
- Một loại mũ của Phật giáo, được đặt tên theo Tỳ Lư Giá Na, tên chung của Pháp thân Phật tức là Đức Đại Nhật Như Lai của Mật giáo. Mũ thường được đội trong các tang lễ hoặc trai đàn chẩn tế.
-
- Tày
- Bằng (từ cổ).
-
- Giành
- Còn gọi là trác, đồ đan bằng tre nứa hoặc mây, đáy phẳng, thành cao, thường dùng để chứa nông sản, gặp ở miền Bắc và một số tỉnh Bắc Trung Bộ.