Ba cô đi lễ nhà thờ
Một cô yếm trắng nhầm sờ phải cha
Cha rằng: Có bỏ mau ra
Nó mà trỗi dậy bỏ cha bây giờ!
Ngẫu nhiên
-
-
Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa
Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa
Tôi giơ tay tôi sửa cho nó lăn đứng
Tôi coi không xứng, tôi sửa cho nó lăn dẹp
Tôi thấy không đẹp, tôi sửa cho nó lăn tròn
Ô này mình ơi!
Giận thời nói vậy, chớ dạ anh còn thương em.Dị bản
-
Mấy lời hẹn ước từ xưa
-
Ơi em nho nhỏ, cắt cỏ giữ trâu
-
Đi khôn đứt, bứt khôn rời
-
Rượu nồng ai uống mà say
-
Học trò là học trò trung
Học trò là học trò trung
Sáng mai ngủ dậy giở vung vét nồi -
Ông trăng đêm rằm thì tròn
Ông trăng đêm rằm thì tròn
Mà chàng với thiếp hãy còn long đong -
Nuôi con mới biết sự tình
Nuôi con mới biết sự tình
Cảm thương cha mẹ nuôi mình ngày xưaDị bản
Nuôi con mới biết sự tình
Thầm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa
-
Đi buôn bữa lỗ bữa lời
-
Những người chép miệng thở dài
Những người chép miệng thở dài
Chỉ là sầu khổ, bằng ai bao giờ -
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
– Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em có chồng rồi, trả yếm cho anh
– Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi! -
Chị Xuân đi chợ mùa hè
-
Cha con ông chủ đi đâu
Cha con ông chủ đi đâu
Để cho đầy tớ nhà lầu xe hơi -
Ấm oái như hai gái lấy một chồng
-
Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra
Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra
-
Đầu làng có bụi chuối khô
-
Biết ai than thở sự tình
Biết ai than thở sự tình
Chẳng qua mình lại biết mình mà thôi
Lấy chồng gặp phải kẻ tồi
Cho nên lòng những bồi hồi đắng cay
Cả ngày chỉ rượu sưa say
Khi nay thuốc phiện khi nay tài bàn
Nói ra mang tiếng phũ phàng
Nín đi thì não can tràng xiết bao
Cũng thì phận gái má đào
Người thì gặp được anh hào đảm đang
Mình thì cũng dự phấn hương
Gặp nơi lêu lổng chẳng thương chút nào -
Em ôm bó mạ xuống đồng
-
Chồng bát chồng đĩa chồng sứ chồng sành
Chồng bát chồng đĩa chồng sứ chồng sành
Chồng ở chẳng lành, chồng ra bờ tre
Chú thích
-
- Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
-
- Thời
- Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
-
- Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.
-
- Khôn
- Khó mà, không thể.
-
- Đi khôn đứt, bứt khôn rời
- Bịn rịn, lưu luyến nhau.
-
- Đức Thanh
- Tên một xã thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đây nổi tiếng với rượu nếp làng Thanh Lạng.
-
- Vời
- Khoảng giữa sông.
-
- Cá thu
- Loại cá biển, thân dài, thon, không có hoặc có rất ít vảy. Từ cá thu chế biến ra được nhiều món ăn ngon.
-
- Đồng Nai
- Tên gọi chung của toàn thể miền đồng bằng Nam Bộ, phổ biến vào thế kỉ 19 trở về trước, nay được giới hạn để chỉ một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ. Lịch sử của Đồng Nai gắn liền với lịch sử của vùng đất Nam Bộ, khi có làn sóng di dân từ Bắc vào Nam trong cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh vào thế kỉ 16. Hiện nay Đồng Nai là cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ, đồng thời là một trong ba mũi nhọn kinh tế miền Nam cùng với thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương.
-
- Bến Nghé
- Địa danh ban đầu là tên đoạn sông Sài Gòn, đoạn chảy qua thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, sau đó được dùng để chỉ vùng trung tâm Sài Gòn. Hiện nay Bến Nghé là tên một phường thuộc quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Để giải thích cái tên Bến Nghé, hiện có hai thuyết:
1. Theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn Phương Đình dư địa chí (1900) thì: tục truyền sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế. Sách Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự.
2. Theo học giả Trương Vĩnh Ký: Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer: Kompong: bến, Kon Krabei: con trâu. (Le Cisbassac, tr. 192). Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ý rằng: Bến Nghé là cái bến mà "người ta thường cho trâu, bò ra tắm."Trước đây, nhắc đến vùng Đồng Nai - Bến Nghé nghĩa là nhắc đến cả vùng đất Nam Bộ.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
(Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu)
-
- Ấm oái
- (Từ mô phỏng) tiếng kêu khi chòng ghẹo nhau.
-
- Chửa
- Chưa (từ cổ, phương ngữ).
-
- Can trường
- Cũng đọc là can tràng, nghĩa đen là gan (can) và ruột (trường), nghĩa bóng chỉ nỗi lòng, tâm tình.
Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?
(Truyện Kiều)
-
- Mạ
- Cây lúa non. Sau khi ngâm ủ thóc giống, người ta có thể gieo thẳng các hạt thóc đã nảy mầm vào ruộng lúa đã được cày, bừa kỹ hoặc qua giai đoạn gieo mạ trên ruộng riêng để cây lúa non có sức phát triển tốt, sau một khoảng thời gian thì nhổ mạ để cấy trong ruộng lúa chính.