Ngẫu nhiên
-
-
Múa rìu qua mắt thợ
Múa rìu qua mắt thợ
-
Châu sa nước mắt ròng ròng
-
Yêu anh em không nói khi đầu
Yêu anh, em không nói khi đầu
Yêu chi dang dở giữa cầu bắc ngang -
Bằng trang cái nón, cả bọn được nhờ
-
Anh đi ba tháng thì về
Anh đi ba tháng thì về
Rừng thiêng nước độc chớ hề ở lâu -
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Xót lòng mẹ góa con côi
Xót lòng mẹ góa con côi
Kiếm ăn lần hồi lồn lớn bằng mo -
Ở đây rìu rịt lấy chàng
-
Gươm hai lưỡi, miệng trăm hình
Gươm hai lưỡi, miệng trăm hình
Dị bản
Dao hai lưỡi, miệng trăm hình
-
Long Điền Chợ Thủ quê anh
Long Điền, Chợ Thủ quê anh
Trai chuyên đóng tủ, gái sành cửi canh
Dệt hàng, chịu mặc chẳng lành
Giường chõng nghề rành, anh ngủ sạp treDị bản
Long Điền, Chợ Thủ quê anh
Trai chuyên đóng tủ, gái sành cửi canh
Dệt hàng khéo léo thiệt rành
Giường chõng đẹp lành, ai cũng phải khen
-
Đến đây hỏi khách tương phùng
-
Ấm oái như hai gái lấy một chồng
-
Cờ bạc anh đánh có chừng
Cờ bạc anh đánh có chừng
Hết khăn đến áo dây lưng cùng quần. -
Xướng ca vô loài
-
Mâm trầu, hũ rượu đàng hoàng
-
Thế gian lắm kẻ mơ màng
Thế gian lắm kẻ mơ màng
Thấy hòn son thắm ngỡ vàng trời choDị bản
Thế gian nhiều kẻ mơ màng
Trông thấy gạch thắm tưởng vàng mừng reo
-
Phải tội mua mạ, phải vạ mua than
Phải tội mua mạ,
Phải vạ mua than -
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Thân anh lỡ dại hai lần
-
Đè đầu cưỡi cổ
Đè đầu cưỡi cổ
-
Ở trên Châu Đốc ngó xuống Vàm Nao
Ở trên Châu Đốc ngó xuống Vàm Nao
Thấy con cá đao nó nhảy nhào vô lưới
Anh ngồi chắc lưỡi
Không biết khi nào mới cưới đặng em.Dị bản
Chú thích
-
- Ló
- Lúa (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Châu sa
- Nước mắt rơi. (Trong văn thơ, châu hay giọt châu thường được dùng với nghĩa giọt nước mắt.)
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa
(Truyện Kiều)
-
- Bằng trang
- Bằng cỡ, cỡ như.
-
- Rìu rịt
- Không rời, giữ rịt.
-
- Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Long Điền Chợ Thủ
- Địa danh nay thuộc xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, trên đoạn đường từ thị trấn Mỹ Luông đến thị trấn Chợ Mới. Theo nhà văn Sơn Nam thì dịa danh Chợ Thủ là tên gọi tắt của Chiến Sai thủ sở, nằm ở phía tây sông Trà Thôn. Thủ là đồn quân có nhiệm vụ kiểm soát sông rạch, Chiến Sai là cách đọc trại của từ Khmer Kiên Svai (chòm cây xoài). Đến đời Minh Mạng, Thủ Chiến Sai đổi tên là bảo An Lạc. Ngoài ra nơi đây còn được gọi là Củ Hủ, Cù Hu hay Cỗ Hỗ.
Long Điền Chợ Thủ có hai nghề truyền thống là dệt vải và đóng đồ mộc, chạm khắc gỗ.
-
- Chõng
- Đồ dùng để nằm, ngồi, làm bằng tre nứa, giống như chiếc giường nhưng nhỏ, hẹp hơn. Ngày xưa, những nhà buôn bán nhỏ thường xếp hàng hóa lên một chiếc chõng, gọi là chõng hàng.
-
- Tương phùng
- Gặp nhau (từ Hán Việt).
-
- Ấm oái
- (Từ mô phỏng) tiếng kêu khi chòng ghẹo nhau.
-
- Có người hiểu câu tục ngữ này với ý coi thường hạng ca sĩ, nhưng theo Lê Gia trong 1575 thành ngữ tục ngữ cần bàn thêm: Thời xưa người ta chia ra "tứ dân" (sĩ, nông, công, thương), là những thành phần có số lượng đông đảo và chuyên nghiệp. Còn các thành phần ít người và thiếu chuyên nghiệp như thợ săn, lái đò, bốc vác, v.v. trong đó có giới ca sĩ (xướng ca), thì không được xếp vào loại nào (vô loài), tức là không nằm trong "tứ dân," chứ không có ý khinh khi. Trái lại, nghề ca sĩ xưa (và cả nay) lại được rất nhiều người mê. Tuy nhiên, giới xướng ca xưa chủ yếu là nghiệp dư, tuổi nghề lại ngắn, dễ thất nghiệp nên cuộc sống bấp bênh, người ta dùng câu tục ngữ trên để khuyên can những ai lựa nghề ca hát làm nghiệp.
Các trí thức ngày xưa vẫn có thú thưởng thức hát chèo, hát ví, ca trù, cô đầu, hát xẩm,... Nổi tiếng nhất có lẽ là nhà nho Nguyễn Công Trứ với niềm đam mê hát ả đào.
Hát bội làm tội người ta
Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con
(Ca dao)
-
- Làm mai
- Còn gọi là làm mối, mai mối. Người làm mai gọi là ông (bà) mối hay ông (bà) mai, là người đứng trung gian, giới thiệu cho hai bên trai gái làm quen hoặc cưới nhau.
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Mằn
- Mân mê, sờ mó (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Châu Đốc
- Địa danh nay là thị xã của tỉnh An Giang, nằm sát biên giới Việt Nam - Campuchia và cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km về phía Tây. Châu Đốc nổi tiếng vì có nhiều món ăn ngon và nhiều di tích lịch sử. Dưới thời Pháp thuộc, Châu Đốc là điểm khởi đầu thủy trình đến Nam Vang.
Theo học giả Vương Hồng Sển, địa danh Châu Đốc có nguồn gốc từ tiếng Khmer moat-chrut, nghĩa là "miệng heo."
-
- Vàm Nao
- Tên một con sông tại tỉnh An Giang, nối sông Tiền với sông Hậu. Theo học giả Vương Hồng Sển, sông này "đứng làm ranh giới giữa Long Xuyên và Châu Đốc, chảy dọc theo làng Hòa Hảo... Vì nước chảy như cắt, sóng to, xoáy tròn khu ốc, nên gọi là Hồi Oa, nôm gọi là Vàm Nao, do tiếng Cơ Me (Khmer) là 'pãm pênk nàv'."
-
- Cá đao
- Loại cá biển rất dữ tợn thuộc họ cá đuối, trên mõm có một mũi sụn kéo dài, hai bên có nhiều răng nhọn, nhìn như thanh đao.
-
- Sông Vàm Nao trước đây từng mệnh danh là ổ cá mập, cá đao. Có người nói do Vàm Nao có lòng chảo sâu ăn thông với biển nên lâu lâu có cá mập, cá đao bơi lạc vào. Theo sách Tân Châu xưa (tác giả Huỳnh Minh và Nguyễn Văn Kiềm), năm 1819, Thoại Ngọc Hầu cho đào kinh Vĩnh Tế, dân phu ngán rừng thiêng nước độc đã bỏ trốn, chạy tới Vàm Nao, gặp sông nên đốn cây chuối ôm bơi qua, nhưng tới giữa dòng thì bị nước xoáy cuốn chìm, cá mập lao tới xâu xé, ăn thịt.
-
- Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
-
- Ba Thắc
- Tên của một địa danh ở miền Nam, xuất phát từ chữ Bassac trong tiếng Khmer. Hiện có ba cách giải thích về địa danh này:
1. Vùng đất ngày xưa thuộc địa phận của Campuchia, người Khmer gọi là Srok Bassac. Vùng đất này kéo dài từ Châu Đốc xuống Cà Mau hiện nay.
2. Tên gọi khác của sông Hậu (người Khmer gọi là Tonlé Bassac).
3. Tên gọi một trong ba cửa biển của sông Hậu, bao gồm Tranh Đề, Định An và Ba Thắc. Cửa Ba Thắc đã bị đất bồi từ khoảng thập niên 1970 nên không còn nữa.