Kiến tha lâu đầy tổ
Ngẫu nhiên
-
-
Ăn không nên đọi, nói không nên lời
-
Hàm nghiến, lưỡi đốm hoa cà
Hàm nghiến, lưỡi đốm hoa cà,
Vểnh sừng tóc chóp, cửa nhà mang tai -
Đồn vui, sai thú đi thăm
-
Tri Tôn, Châu Đốc rất gần
-
Nam mô bồ tát bồ hòn
-
Vạt áo em trước ngắn, sau dài
-
Đi cho biết đó biết đây
Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn. -
Tới giờ còn ngủ chì ì
Tới giờ còn ngủ chì ì
Mặt trời đã mọc, chưa đi ra cày -
Liếc mắt thấy bóng văn nhân
-
Cau non trầu lộc mỉa mai
Cau non trầu lộc mỉa mai
Da trắng tóc dài, đẹp với ai đây? -
Chắp tay vái lạy Bụt giời
-
Bốn bề công nợ eo xèo
-
Cẩn tắc vô ưu
Dị bản
Cẩn tắc vô áy náy
-
Ếch kêu chiều tối dưới mương
Dị bản
Nhái kêu chiều xế dưới mương,
Thiếp yên phận thiếp còn thương nỗi chàng.
-
Cỏ may mọc ở giữa đàng
-
Nhà em cột đá xà đồng
-
Bán chạy khỏi lạy láng giềng
Bán chạy khỏi lạy láng giềng
-
Ác khuất non đoài
-
Kiếp sau đừng hóa ra người
Kiếp sau đừng hóa ra người
Hóa ra dải yếm buộc người tình chung
Chú thích
-
- Đọi
- Cái chén, cái bát (phương ngữ một số vùng ở Bắc Trung Bộ).
-
- Lưu thú
- Làm lính canh giữ đồn, thành trong một khoảng thời gian nhất định.
-
- Tri Tôn
- Địa danh nay là một huyện miền núi thuộc tỉnh An Giang. Tại đây có thắng cảnh đồi Tức Dụp, di tích chùa Xà Tón, và nhất là nhà mồ Ba Chúc, nơi tưởng niệm các nạn nhân của cuộc thảm sát do Khmer Đỏ gây ra.
-
- Châu Đốc
- Địa danh nay là thị xã của tỉnh An Giang, nằm sát biên giới Việt Nam - Campuchia và cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km về phía Tây. Châu Đốc nổi tiếng vì có nhiều món ăn ngon và nhiều di tích lịch sử. Dưới thời Pháp thuộc, Châu Đốc là điểm khởi đầu thủy trình đến Nam Vang.
Theo học giả Vương Hồng Sển, địa danh Châu Đốc có nguồn gốc từ tiếng Khmer moat-chrut, nghĩa là "miệng heo."
-
- Nam mô
- Phiên âm của từ Namo नमो (nghĩa là tôn kính hoặc hướng về) trong tiếng Sanskrit, để thể hiện sự sùng kính hoặc quy ngưỡng. Người theo đạo Phật thường dùng tiếng "Nam mô" để khởi đầu cho câu niệm danh hiệu các Phật và Bồ Tát. "Nam mô" còn đọc là "Nam vô" 南無 theo phiên âm từ tiếng Hán.
-
- Bồ Tát
- Viết tắt của Bồ-đề-tát-đỏa, cách phiên âm tiếng Phạn bodhisattva sang chữ Hán Việt, nghĩa là người hữu tình (tát đỏa) đã giác ngộ (bồ đề). Theo Phật giáo đại thừa, bồ tát là những người đã đạt được cảnh giới, nhưng quyết không trở thành Phật khi nào toàn bộ chúng sinh còn chưa giác ngộ. Phật tử khi tụng kinh thường niệm Bồ Tát.
-
- Bồ hòn
- Cây to cùng họ với vải, nhãn, quả tròn, khi chín thì thịt quả mềm như mạch nha. Quả bồ hòn có vị rất đắng, có thể dùng để giặt thay xà phòng.
-
- Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
-
- Răng
- Sao (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Văn nhân
- Người viết văn hoặc có kiến thức về văn học; người trí thức.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
(Truyện Kiều)
-
- Bụt
- Cách gọi dân gian của Phật, bắt nguồn từ cách phiên âm từ Buddha (bậc giác ngộ - Phật) trong tiếng Ấn Độ.
-
- Eo sèo
- Kêu ca, phàn nàn.
-
- Cẩn tắc vô ưu
- Cẩn thận thì không phải lo lắng (về sau).
-
- Mương
- Đường nước do con người đào để dẫn nước.
-
- Cỏ may
- Một loại cỏ thân cao, có nhiều hoa nhỏ thành chùm màu tím sậm, hay gãy và mắc vào quần áo (có lẽ vì vậy mà thành tên cỏ may). Cỏ may xuất hiện rất nhiều trong văn thơ nhạc họa.
Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em
(Hoa cỏ may - Nguyễn Bính)
-
- Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Xà gồ
- Cũn gọi là đòn tay, thanh cứng (ngày xưa thường làm bằng gỗ hoặc tre) được đặt nằm ngang để đỡ các bộ phận bên trên của một công trình xây dựng (nhà cửa, đền chùa...).
-
- Quạ
- Còn gọi là ác, loài chim có bộ lông màu đen đặc trưng, ăn tạp. Theo mê tín dân gian, quạ có thể đem lại điềm xui xẻo.
-
- Đoài
- Phía Tây.