Ti-vi, tủ lạnh, hon-đa,
Có ba thứ ấy mới ra con người
Ti-vi, tủ lạnh, hon-đa
Dị bản
Ti-vi, tủ lạnh, hon-đa,
Có ba thứ ấy khám nhà như chơi
Ti-vi, tủ lạnh, hon-đa,
Có ba thứ ấy mới ra con người
Ti-vi, tủ lạnh, hon-đa,
Có ba thứ ấy khám nhà như chơi
Xấu mặt dễ sai
Đẹp trai khó khiến
Ra đây mà hát mấy câu,
Được thua, thua được cho nhau bằng lòng.
Dung dăng dung dẻ,
Dắt trẻ đi chơi.
Đến cửa nhà trời,
Lạy cậu lạy mợ,
Cho cháu về quê,
Cho dê đi học,
Cho cóc ở nhà,
Cho gà bới bếp,
Xì xà xì xụp
Ngồi thụp xuống đây.
Xúc xắc xúc xẻ
Dắt dế đi chơi
Đến ngõ nhà Trời
Lạy Cậu lạy Mợ
Cho chó về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Xì xà xì xụp.
Con ơi chớ lấy vợ giàu,
Cơm ăn chê hẩm, canh bầu chê tanh
Đêm năm canh không ngủ, dậy ngồi,
Cớ sao trong dạ bồi hồi chuyện chi?
Đau lòng ta lắm, hỡi nữ nhi
Thếp dầu đầy, anh thắp hết, bày ly, anh than hoài!
Quên đi thì chớ, nhớ lại khó nổi nguôi ngoai,
Tự xưa cho đến rày cách trở đợi trông,
E cho nàng có chốn ba đông,
Có nơi kết tóc, không trông đến phận chàng,
Đêm nằm khô héo lá gan,
Thếp dầu đầy anh thắp hết, cháy tàn bày ly.
Kể từ ngày em chịu chữ tùng quy,
Chàng Hồ thiếp Hán tài chi không buồn rầu!
Chiều chiều ra đứng soi dâu,
Nghe con chim nó kêu dìu dắc, dạ anh sầu bấy nhiêu.
Một, hai, ba, nhà bà ba có giỗ
Nghe pháo nổ xách cái rổ chạy qua
Bà ba ơi cho con xin trái ổi
Mụ nội mày ! Mấy trái ổi còn non !
Chiều chiều bắt két nhổ lông
Nó kêu bớ Tự sao lòng bất nhơn
Nước ròng chảy tới Nam Vang,
Làm thơ để lại em khoan lấy chồng,
Tay bưng chậu cúc năm bông,
Chờ anh chẳng đặng nên trồng xuống đây.
Có phúc cùng hưởng
Có họa cùng chịu
Thành ngữ kẻ Hán người Hồ, cũng nói tắt là Hán Hồ, vì thế chỉ nỗi đau li biệt của đôi lứa yêu nhau.
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai
(Truyện Kiều)
Theo học giả Vương Hồng Sển, địa danh Châu Đốc có nguồn gốc từ tiếng Khmer moat-chrut, nghĩa là "miệng heo."
Phận hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương
(Truyện Kiều)