Anh giơ khăn trắng em cầm,
Mai sau về trển, gối đầu nằm lấy hơi.
Ngẫu nhiên
-
-
Vào lỗ tai ra lỗ miệng
Vào lỗ tai, ra lỗ miệng
-
Em ơi đừng thấy nhỏ mà rầu
-
Đồng Nai xa lắm ai ơi
-
Dại như vích
-
Gươm linh sút cán còn trành
-
Trời mưa nhà thiếc kêu boong
Trời mưa nhà thiếc kêu boong
Cha mẹ đâu dứt nghĩa con cho đành -
Trao thư thì chẳng muốn cầm
Trao thư thì chẳng muốn cầm
Thư rơi xuống đất, khóc thầm với thư -
Có ăn vất vả đã cam
-
Trên trời sa xuống hai tiên
-
Muốn ăn cơm nếp độ chà
Dị bản
Muốn ăn cơm nếp độ chà
Muốn coi gái đẹp thì ra Yên Hồ
-
Vô đây hò hố bông lông
-
Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
-
Công to việc lớn
Công to việc lớn
-
Ở náu nương chờ người quân tử
-
Cha làm thầy con đốt sách
Cha làm thầy con đốt sách
-
Tôi chưa già nhưng tôi chán đàn ông
Tôi chưa già nhưng tôi chán đàn ông
Đầu hôm khó ngủ, hừng đông kêu hoài -
Dẫu cho phụ mẫu rầy la
-
Ngồi buồn, nhớ nước nhớ nhà
Ngồi buồn, nhớ nước nhớ nhà
Nay anh đi lính, bỏ mẹ già ai nuôi. -
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Sướng con cu, mù con mắt
Dị bản
Chú thích
-
- Trển
- Trên ấy (phương ngữ Trung và Nam Bộ)
-
- Bây lớn
- Chỉ lớn chừng này (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Bầu
- Loại cây dây leo cho quả, thường được nhân dân ta trồng cho bò trên giàn. Quả bầu, hoa bầu và đọt bầu non thường được dùng làm thức ăn, ruột và vỏ bầu khô có thể dùng làm các vật dụng gia đình hoặc làm mĩ nghệ. Có nhiều loại bầu: bầu dài, bầu tròn, bầu hồ lô (bầu nậm)...
-
- Đồng Nai
- Tên gọi chung của toàn thể miền đồng bằng Nam Bộ, phổ biến vào thế kỉ 19 trở về trước, nay được giới hạn để chỉ một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ. Lịch sử của Đồng Nai gắn liền với lịch sử của vùng đất Nam Bộ, khi có làn sóng di dân từ Bắc vào Nam trong cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh vào thế kỉ 16. Hiện nay Đồng Nai là cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ, đồng thời là một trong ba mũi nhọn kinh tế miền Nam cùng với thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương.
-
- Dại như vích
- Câu thành ngữ này được cho bắt nguồn từ một câu chuyện dân gian: Có con vích nằm trên bờ biển. Một người bắt ngao đi ngang qua, quăng dây thòng lọng thít chặt vào chân vích kéo vào đất liền. Vích cố sức co lại kéo tuột dây, trốn xuống nước. Hôm sau người bắt ngao lại rình quăng được dây thít chặt lấy chân vích và lần này hết sức kéo vích ra biển. Vích vẫn có hết sức co ngược lại như lần trước, vì thế mỗi lúc một lùi sâu vào đất liền và bị tóm.
-
- Trành
- Lưỡi gươm hoặc lưỡi dao cùn và không còn phần cán.
-
- Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Mộ
- Mến phục.
-
- Độ
- Đậu, đỗ (cách phát âm của một số địa phương Bắc Trung Bộ).
-
- Cơm nếp độ chà
- Loại xôi làm từ nếp và đỗ xanh chà (cán) thành bột, tương tự như món xôi vò.
-
- Yên Hồ
- Một địa danh nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thời nhà Trần vùng này gọi là Bà Hồ, thời Lê gọi là Bình Hồ; theo phỏng đoán của các nhà nghiên cứu, tên Yên Hồ có lẽ có từ đời Tây Sơn.
-
- Hò
- Một trong những thể loại âm nhạc dân gian, có nguồn gốc từ lao động sông nước, diễn tả tâm tư tình cảm của người lao động. Hò là nét văn hóa đặc trưng của miền Trung và miền Nam. Hò và lý tuy có phần giống nhau nhưng hò thường gắn liền với với một động tác khi làm việc, còn lý thì không.
Nghe một bài hò mái nhì.
-
- Chiêm
- (Lúa hay hoa màu) gieo cấy ở miền Bắc vào đầu mùa lạnh, khô (tháng mười, tháng mười một) và thu hoạch vào đầu mùa nóng, mưa nhiều (tháng năm, tháng sáu), phân biệt với mùa. Đây cũng là cách gọi tắt của "lúa chiêm." Theo sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, người Việt trước đây đã học cách trồng một số giống lúa gieo vào mùa đông, thu hoạch vào mùa hạ từ người Chiêm Thành, nên gọi là lúa chiêm hay lúa chăm.
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Su
- Sâu (phương ngữ Nghệ Tĩnh).