Ngẫu nhiên
-
-
Nhớ hàng tre thẳng đọt măng
-
Chè la, chè lít
Chè la, chè lít
Bà cho ăn quýt
Bà đánh đau tay
Chắp tay lạy bà
Hì hà hì hụp -
Khi khóc dai ngồi dỗ
Khi khóc dai ngồi dỗ
Khi ngứa ngáy ngồi xoa
Trông tháng trọn ngày qua
Trông từng li từng tí
Khi bữa ăn đương dở
Con tiểu giải lên mình
Ai nấy cũng đều kinh
Cha mẹ ngồi chịu vậy
Kể trong nhà đói khổ
Trời giá rét căm căm
Nơi ướt để mẹ nằm
Nơi khô xê con lại
Suốt đêm ngày mong mỏi
Con khôn lớn mai sau
Nghĩa khó nhọc bấy lâu
Công giữ gìn chăm sóc -
Cua nhà nọ, rọ nhà kia
-
Tay cắp cây cung vàng
-
Sớm mơi ra đứng cột lều
-
Trai phải hơi vợ như cò bợ gặp mưa
-
Thần nanh đỏ mỏ
-
Ta về ta tắm ao ta
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn -
Dưới sông, sóng vận cát đùa
Dị bản
-
Thương nhau từ thuở méo trời
Thương nhau từ thuở méo trời
Bây giờ méo đất phải rời nhau ra -
Đôi chim se sẻ ăn rẽ đường cày
Đôi chim se sẻ ăn rẽ đường cày
Đôi ta thương vội ít ngày rồi thôi -
Nhơn trung sâu tợ như đào
Dị bản
Nhân trung sâu tựa như đào
Vang danh thế giới, anh hào ai đương
-
Trời không chớp bể mưa nguồn
Trời không chớp bể mưa nguồn
Hỏi anh vơ vẩn anh buồn vì đâu
Trời không gió thảm mây sầu
Hỏi anh vơ vẩn vì đâu anh buồn -
Lúng búng như ngậm hột thị
-
Ăn sung ngồi gốc cây sung
-
Ngó vô Hòn Yến xanh xanh
-
Gặp anh đây bụng mừng phơi phới
-
Cổ Đô thật chốn giang hồ
Chú thích
-
- Chựa
- Chữa (cách phát âm của người Huế).
-
- Răng đen
- Người xưa có phong tục nhuộm răng đen. Từ điển Văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, 2002, trang 511, nói về nhuộm răng như sau:
"Phong tục người Việt cổ coi răng càng đen càng đẹp. Trước khi nhuộm đen phải nhuộm đỏ. Thuốc nhuộm răng đỏ là cánh kiến đỏ trộn với rượu rồi đun quánh như bột nếp. Quét bột này lên mảnh lá chuối hột ấp vào răng trước khi đi ngủ. Làm nhiều lần cho đến khi hàm răng bóng ánh nổi màu cánh gián. Thuốc nhuộm đen: phèn đen, vỏ lựu khô, quế chi, hoa hồi, đinh hương nghiền nhỏ, hòa giấm hoặc rượu, đun cho quánh như hồ dán. Quét lên lá chuối đắp lên răng như nhuộm đỏ. Từ 5 đến 7 ngày thuốc mới bám vào răng, nổi màu đen thẫm rồi đen bóng. Súc miệng bằng nước cốt dừa. Kiêng ăn thịt mỡ, cua cá, vật cứng, nóng. Có khi chỉ nuốt cơm hoặc húp cháo. Kể cả nhuộm đỏ và đen, thời gian kéo dài đến nửa tháng."
-
- Cua nhà nọ, rọ nhà kia
- Soi mói việc của người khác.
-
- Tùng
- Cây thuộc họ thông, thân và tán có dáng đẹp. Tùng có rất nhiều loại, có loại cao lớn, cũng có loại làm cảnh nhỏ. Theo quan điểm Nho giáo, cây tùng thường được ví với lòng kiên trinh, người quân tử.
-
- Vãng lai
- Đi lại (từ Hán Việt).
-
- Mơi
- Mai (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Cò bợ
- Một giống cò có mỏ vàng với đầu mỏ đen, chân và mắt màu vàng. Bình thường cò bợ có bộ lông màu xám, đến mùa sinh sản thì chuyển sang màu đỏ, xanh và trắng.
-
- Thần trùng
- Thần hành hạ người chết vào ngày trùng hoặc bắt những người trong gia đình có người chết vào ngày trùng cứ chết nối theo, theo tín ngưỡng dân gian. Thần trùng xuất hiện dưới dạng một con chim mổ người chết, nên cũng gọi là "thần nanh đỏ mỏ."
-
- Thần nanh đỏ mỏ
- Từ dùng để chửi.
-
- Đùa
- Lùa mạnh qua (gió đùa, nước đùa, lấy tay đùa...)
-
- Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
-
- Gá duyên
- Kết thành nghĩa vợ chồng.
-
- Nhân trung
- Phần lõm từ dưới mũi xuống đến giữa môi trên.
-
- Tợ
- Tựa như, giống như (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Thị
- Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được.
Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng.
(Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh)
-
- Sung
- Một loại cây gặp nhiều trên các vùng quê Việt Nam. Thân cây sần sùi, quả mọc thành chùm. Quả sung ăn được, có thể muối để ăn như muối dưa, cà, ngoài ra còn dùng trong một số bài thuốc dân gian.
-
- Tứ tung ngũ hoành
- Nghĩa đen là bốn phương dọc, năm phương ngang. Chỉ khắp bốn phía.
-
- Hòn Yến
- Tên một đảo đá cao nằm ngoài khơi xã An Hòa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngày xưa nơi đây có rất nhiều chim yến đến làm tổ, nên có tên gọi như vậy. Hiện nay Hòn Yến được xem là một thắng cảnh độc đáo của Phú Yên.
-
- Lưới mành
- Loại lưới đánh cá biển truyền thống của các tỉnh Nam Bộ, chủ yếu dùng để khai thác các loài cá nổi như cá chim, trích, nục, cơm, bạc má, chỉ vàng...
-
- Cẳng
- Chân (khẩu ngữ).
-
- Tổng
- Đơn vị hành chính thời Lê, Nguyễn, trên xã, dưới huyện. Một tổng thường gồm nhiều xã. Người đứng đầu tổng là chánh tổng, cũng gọi là ông Tổng.
-
- Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Cổ Đô
- Một thôn thuộc xã Trà Sơn, tổng Vận Quy, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên ngày trước, nay là một phần của xã Thiệu Đô, tỉnh Thanh Hóa.
-
- Giang hồ
- Sông và hồ, chỉ cảnh vật đẹp đẽ (nay ít dùng).