Bằng hột mít,
Đít có lông
Đến ngày giỗ ông
Đem ra làm thịt.
Ngẫu nhiên
-
-
Bún bò bà Chỉ tiếng đồn
-
Quan trường khốn nạn giết bạn như chơi
-
Bao giờ nước ráo làm mây
-
Ra về vừa đến đất nhà
-
Chiều chiều vác cuốc đào lươn
-
Vừa bằng cái nong, cả làng đong không hết
-
Chỉ tơ rối rắm trong cuồng
-
Kính cha tấm lụa tấm là, trọng cha tấm quà tấm bánh
Kính cha tấm lụa tấm là
Trọng cha tấm quà tấm bánh -
Ba năm thẻ cắm, nêu trồng
-
Nực cười châu chấu đá xe
-
Mưa từ thung lũng mưa ra
Mưa từ thung lũng mưa ra
Trèo non, lội suối em qua tìm chồng
Tìm chồng sao chẳng thấy chồng
Lênh đênh trôi dạt theo dòng tới đâu -
Anh tỉ phận anh
-
Không trong cũng nước giữa dòng
Không trong cũng nước giữa dòng
Không tin bạn uống vào lòng mà xem. -
Chó ăn mồm
-
Ai xui đất thấp trời cao
Ai xui đất thấp trời cao
Để cho tôi đứng tôi gào hết hơi
Hết hơi chẳng thấy trả lời
Thấy trong trời đất có tôi đứng gào -
Cá ăn kiến, kiến ăn cá
Cá ăn kiến, kiến ăn cá
-
Làm dâu cực nhọc long đong
Làm dâu cực nhọc long đong
Khuya còn giã gạo lưng không được nằm -
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe -
Bà khen con bà tốt, tháng mười tháng một bà biết con bà
Chú thích
-
- Bánh quai vạc
- Một loại bánh mặn làm từ bột mì có hình dáng giống quai vạc, nhân tôm, thịt, trứng... Khi chế biến, bánh được gấp lại thành hình bán nguyệt và ép mí bánh; khi chín, viền bánh dợn sóng. Tùy theo từng vùng miền, bánh này còn có tên là bánh gối hoặc bánh xếp.
-
- Quan trường
- Chốn làm quan, giới quan lại.
-
- Sông Hương
- Tên con sông rất đẹp chảy ngang thành phố Huế và một số huyện của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tùy theo giai đoạn lịch sử, sông còn có các tên là Linh Giang, Kim Trà, Hương Trà... Ngoài ra, người xưa còn có những tên địa phương như sông Dinh, sông Yên Lục, sông Lô Dung... Sông Hương đã được đưa vào rất nhiều bài thơ, bài hát về Huế, đồng thời cùng với núi Ngự là hình ảnh tượng trưng cho vùng đất này.
-
- Đọi
- Cái chén, cái bát (phương ngữ một số vùng ở Bắc Trung Bộ).
-
- Lươn
- Loài cá nước ngọt, thân hình trụ, dài khoảng 24-40 cm, đuôi vót nhọn, thoạt nhìn có hình dạng như rắn. Lươn không có vảy, da trơn có nhớt, màu nâu vàng, sống chui rúc trong bùn ở đáy ao, đầm lầy, kênh mương, hay ruộng lúa. Lươn kiếm ăn ban đêm, thức ăn của chúng là các loài cá, giun và giáp xác nhỏ.
Ở nước ta, lươn là một loại thủy sản phổ biến, món ăn từ lươn thường được coi là đặc sản. Lươn được chế biến thành nhiều món ngon như: cháo lươn, miến lươn, lươn xào...
-
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Ngũ Trợt.
-
- Guồng
- Cũng gọi là cuồng, mớ chỉ, sợi quấn tròn lại thành một cục lớn, không có trục hoặc lõi bên trong.
-
- Cắm thẻ ruộng
- Cắm thẻ để nhận và xác định chủ quyền của một mảnh ruộng.
-
- Cắm nêu ruộng
- Cắm cây nêu để báo cho mọi người biết là ruộng đang bị tranh chấp hay bị thiếu thuế, không ai được mua lúa, gặt hái.
-
- Châu chấu
- Loại côn trùng nhỏ, chuyên ăn lá, có cánh màng, hai chân sau rất khỏe dùng để búng.
-
- Tỉ
- So sánh, ví dụ, giống như.
-
- Tăng Tử
- Tên thật là Tăng Sâm (曾参), tự Tử Dư, một trong những học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử. Ông làm ra sách Đại học gồm 10 thiên và là một trong Tứ thư của Nho gia (cùng với Trung dung, Luận ngữ và Mạnh Tử). Tăng Sâm cũng nổi tiếng là người con có hiếu, tương truyền khi mẹ ông cắn ngón tay thì ông cảm thấy đau quặn trong lòng.
-
- Tử Lộ
- Tự là Trọng Do, một trong những học trò của Khổng Tử, là một người con rất hiếu thảo. Tương truyền thuở thiếu thời, Tử Lộ thường lên rừng cách xa cả trăm dặm đốn củi, sau đó đem bán lấy tiền, mua gạo đội về nuôi cha mẹ. Sau khi cha mẹ mất, ông sang nước Sở, được vua Sở trọng dụng, phong ban tước cao sang, cấp nhiều bổng lộc, nhưng vẫn thường than phiền là không còn cha mẹ để được phụng dưỡng như xưa, để ngày ngày đội gạo, bữa bữa nấu canh rau. Câu nói nổi tiếng "Mộc dục tịnh nhi phong bất đình, tử dục dưỡng nhi thân bất tại" (cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn nuôi mà cha mẹ không còn sống) là của Tử Lộ.
-
- Vương Khải
- Quan Hậu tướng quân nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, em của Văn Minh hoàng hậu, nhà rất giàu có, ăn chơi xa xỉ. Ông và Thạch Sùng từng có cuộc thi xem nhà ai có nhiều của báu hơn. Ở Nam Bộ, tên ông này cũng được phát âm thành Dương Khởi.
-
- Thạch Sùng
- Tên một vị quan nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng là nhân vật xa hoa giàu có đương thời. Giữa ông và Vương Khải từng có cuộc thi xem nhà ai giàu có hơn. Cũng vì gia sản này mà Thạch Sùng gặp tai họa, bị triều thần chém chết năm 52 tuổi.
Trong kho tàng cổ tích Việt Nam có truyện Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho, theo đó Thạch Sùng là một phú hộ giàu có, tự đắc rằng nhà không thiếu thứ gì. Vương Khải cược với Thạch Sùng toàn bộ gia sản, cuối cùng khi đòi đến mẻ kho thì Thạch Sùng không có, đành chịu mất hết cơ nghiệp. Ông chết hoá thành con thạch sùng, suốt ngày chắc lưỡi tiếc của.
-
- Chó ăn mồm
- Chửi hạng hỗn hào, gặp không biết chào hỏi ai.