Ngẫu nhiên
-
-
Bầu non ong đút nó eo
-
Trong nhà có bà hai đầu
-
Chim kêu vườn thị, lâm lụy thêm buồn
-
Yêu nhau chưa ráo mồ hôi
Yêu nhau chưa ráo mồ hôi
Chưa tan buổi chợ đã rời nhau raDị bản
Gặp nhau chưa ráo mồ hôi
Chưa tan cối gạo đã rời nhau ra.Yêu nhau chưa ráo mồ hôi
Chưa tan buổi chợ đã chia đôi ngả đường
-
Em nay là gái chưa chồng
-
Chẳng tư túi, chẳng trăng hoa
-
Chẳng ăn chẳng mặc chẳng chơi
Chẳng ăn chẳng mặc chẳng chơi
Bo bo giữ lấy của trời làm chi -
Dừng xa khoan kéo ơi phường
-
Canh khuya trăng khóc trên đồi
-
Anh ăn rồi lại anh nằm
-
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Cái buồi thì nuôi cái lồn, cái lồn thì chôn cái buồi
Cái buồi thì nuôi cái lồn,
Cái lồn thì chôn cái buồi -
Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa
-
Cả mô là đồ làm biếng
-
Một bầy cò trắng ăn tại mé ao
-
Gà lạc chuồng gà kêu chíp chíp
-
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Khoe anh lắm khéo, lắm khôn
Khoe anh lắm khéo, lắm khôn
Qua cửa nhà lồn bảy vía, còn ba -
Cá chậu chim lồng
Cá chậu chim lồng
-
Xa đưa văng vẳng tiếng chuông
-
Sớm mai, em ngồi bên bức vách
Chú thích
-
- Bí
- Loại cây dây leo được trồng mọc trên giàn để lấy quả. Tương tự như bầu, quả, hoa, hạt và đọt bí được dùng làm thức ăn. Hai loại bí thường gặp nhất là bí xanh (còn gọi là bí đao, bí dài, bí chanh) và bí đỏ (bí rợ).
-
- Bầu
- Loại cây dây leo cho quả, thường được nhân dân ta trồng cho bò trên giàn. Quả bầu, hoa bầu và đọt bầu non thường được dùng làm thức ăn, ruột và vỏ bầu khô có thể dùng làm các vật dụng gia đình hoặc làm mĩ nghệ. Có nhiều loại bầu: bầu dài, bầu tròn, bầu hồ lô (bầu nậm)...
-
- Đút
- Đốt (phương ngữ).
-
- Eo
- Teo tóp lại (phương ngữ Bình Định - Phú Yên).
-
- Thị
- Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được.
Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng.
(Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh)
-
- Tày
- Bằng (từ cổ).
-
- Tư túi
- Lấy của công làm của riêng một cách lén lút.
-
- Nguyệt hoa
- Cũng viết là hoa nguyệt (trăng hoa), chỉ chuyện trai gái yêu đương. Từ này có gốc từ nguyệt hạ hoa tiền (dưới trăng, trước hoa, những cảnh nên thơ mà trai gái hẹn hò để tình tự với nhau), nay thường dùng với nghĩa chê bai.
Cởi tình ra đếm, ra đong
Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa?
(Tơ xuân - Huy Trụ)
-
- Xa
- Đồ dùng để kéo sợi dệt vải.
-
- Phường
- Nhóm người, bọn (thường dùng với nghĩa thiếu tôn trọng).
Con này chẳng phải thiện nhân
Chẳng phường trốn chúa, thì quân lộn chồng
(Truyện Kiều)
-
- Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
-
- Bồ
- Đồ cỡ lớn đựng thóc lúa, thường đan bằng tre.
-
- Vòi rồng
- Hiện tượng cột nước xoáy bốc lên từ biển, dân gian còn gọi là rồng cuốn.
-
- Cả mô là đồ làm biếng
- Theo học giả An Chi, cả mô ở đây có nghĩa là cả đống, cả mớ. Làm cả mô nghĩa là ôm đồm, bưng xách nhiều thứ, làm biếng nên cố làm một lần cho chóng xong thay vì cẩn thận làm từ từ.
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Xáng
- Đánh, đập mạnh một cái gì (xáng chén, xáng bạt tai...).
-
- Chùa Phả Lại
- Xưa tên Chúc Thánh, một ngôi chùa cổ nay thuộc thôn Phả Lại, xã Đức Long, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Chùa thờ thiền sư Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không - hai vị thiền sư có công lớn với vua Lý và tu ở chùa Phả Lại, sau khi mất, hai vị thiền sư được nhân dân tạc tượng thờ và tôn làm Thành hoàng làng.
Cũng có một ngôi chùa khác tên Phả Lại thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
-
- Trách
- Một loại nồi đất, hơi túm miệng, đáy bầu, hông phình.
-
- Chim khách
- Còn gọi là yến nhung hoặc chim chèo bẻo, có bộ lông màu đen than, đuôi dài tẽ làm đôi. Tiếng kêu của chim nghe như "khách... khách" nên nó có tên như vậy. Theo dân gian, chim kêu tức là điềm báo có khách đến chơi nhà.