Bình Lục đồng trắng nước trong
Ngô khoai thì ít, rêu rong thì nhiều
Hòa Mạc ruộng đất phì nhiêu
Nhiều mía nhiều đỗ lại nhiều ngô khoai
Ngẫu nhiên
-
-
Một trăng có mấy cuội ngồi
Một trăng có mấy cuội ngồi
Một gương tuấn kiệt mấy người soi chung -
Lá bàng tai trâu, sầu đâu chân chó
-
Khăn lưng năm bảy mối lòng thòng
-
Chó ông thánh cắn ra chữ
-
Môi mỏng nói điều sai ngoa
-
Phi cao đẳng bất thành phu phụ
-
Giận gần chết ngày tết cũng thôi.
Giận gần chết ngày tết cũng thôi.
-
Trời mưa nhỏ giọt đọt gừng
Trời mưa nhỏ giọt đọt gừng
Đôi ta từ nhỏ đã từng thương nhau -
Thẳng như rắn bò
Thẳng như rắn bò
-
Cây chi xanh xanh
-
Mưa trong đám sậy mưa luồn
-
Gặp em anh nhắc lại cho em tàng
-
Kiểng xa bồn, kiểng không xanh
Dị bản
Kiểng xa bồn, kiểng lại héo queo
Anh xa người nghĩa như lồng đèn treo hết dầu
-
Đứng xa mà ngắm gót chân
Đứng xa mà ngắm gót chân
Nhích lại cho gần mà nắm bàn tayDị bản
Đứng xa mà ngắm gót chân
Nhích lại cho gần mà cắn móng tay
-
Có chồng mà chẳng có con
Có chồng mà chẳng có con
Cũng bằng hoa nở trên non một mình -
Ơ nghé ơi, nghé à
-
Ai về chợ huyện Thanh Vân
Ai về chợ huyện Thanh Vân
Hỏi xem cô Tú đánh vần được chưa
– Đánh vần năm ngoái năm xưa
Năm nay quên hết như chưa đánh vầnDị bản
-
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Tôi đang nằm ở sau hè
-
Thà rằng chẳng biết cho xong
Thà rằng chẳng biết cho xong
Biết ra như xúc, như đong lấy sầu
Chú thích
-
- Bình Lục
- Địa danh trước thuộc phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam, nay là một huyện thuộc tỉnh Hà Nam. Đây là quê hương của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.
-
- Hòa Mạc
- Địa danh nay là một thị trấn thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
-
- Lá bàng tai trâu, sầu đâu chân chó
- Chỉ quãng thời gian mùa xuân từ tháng hai trở đi. Theo Vũ Bằng: Trên các cành bàng, lá non hé mở và cuốn lại, chưa bung ra hết, y như thể tai trâu, còn cây sầu đâu thì từ khoảng này cũng trổ lá non nhưng nhúm lại với nhau thành một hình tròn như vết chân con chó để lại trên mặt đất, sau một đêm mưa tuyết (Thương nhớ mười hai).
-
- Ái ân
- Nguyên nghĩa là tình ái và ân huệ khắng khít với nhau. Về sau được hiểu là sự âu yếm, giao hợp của vợ chồng hay cặp tình nhân.
-
- Chó ông thánh cắn ra chữ
- Thơm lây, có uy tín nhờ người khác.
-
- Sai ngoa
- Sai lầm, không thật.
-
- Phi cao đẳng bất thành phu phụ
- Không tốt nghiệp cao đẳng thì không thành vợ chồng. Đây là “chủ trương kén chồng” của các cô gái Hà Nội thời Pháp thuộc (ở thời ấy bằng cao đẳng là rất cao).
-
- Sậy
- Loại cây thuộc họ lúa, thân rỗng, thường mọc dày đặc thành các bãi sậy.
-
- Tàng
- Tường (rõ ràng) (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Thành Ô Ma
- Tên tiếng Pháp là Camp aux Mares (trại ở nơi có nhiều ao), một trại lính do người Pháp lập nên vào cuối thế kỉ 19. Trên bản đồ Sài Gòn 1947, khu vực Thành Ô Ma được đánh số 132, trên khu đất bao quanh bởi các con đường:
(1) Rue Chasseloup Laubat (trước 1975 là Hồng Thập Tự, nay là Nguyễn Thị Minh Khai)
(2) Rue de Nancy (trước 1975 là Cộng Hòa, nay là Nguyễn Văn Cừ)
(3) Rue Frère Louis (nay là một phần đường Nguyễn Trãi)
(4) Rue d'Arras (nay là đường Cống Quỳnh)
-
- Kiểng
- Cảnh (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Chữ "Cảnh" là tên của Nguyễn Phúc Cảnh (con cả của chúa Nguyễn Ánh), người được đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh nhà Tây Sơn, vì vậy được gọi trại ra thành "kiểng" để tránh phạm húy.
-
- Người nghĩa
- Người thương, người tình.
-
- Con so
- Con đầu lòng.
-
- Bình dân học vụ
- Tên một phong trào do chủ tịch Hồ Chí Minh phát động sau cách mạng tháng Tám để xóa nạn mù chữ (diệt giặc dốt), có sử dụng các câu văn vần mô tả bảng chữ cái cho dễ thuộc: I, tờ (t), có móc cả hai. I ngắn có chấm, tờ dài có ngang
Từ "i tờ" về sau chỉ trình độ học vấn vỡ lòng.
-
- Đá mài
- Ngày xưa (và ở một số vùng nông thôn, miền núi bây giờ) nhân dân ta mài dao cho sắc bằng một hòn đá rất cứng gọi là đá mài. Trước và trong khi mài, người ta vuốt nước lên hòn đá ấy.