Tùng khô, quế rũ, nhân nghĩa cũ xa rồi
Phủi tay đứng dậy chớ còn ngồi chi đây?
Ngẫu nhiên
-
-
Vui là vui gượng qua thì
Vui là vui gượng qua thì
Công danh chưa toại, vui gì mà vui -
Mãn mùa, vịt lội về Gieo
-
Đầu làng gươm bén hai thanh
-
Những người mặt mũi lọ lem
Những người mặt mũi lọ lem
Bởi chưng kiếp trước đĩa đèn không lau
Những người mặt trắng phau phau
Bởi chưng kiếp trước hay lau đĩa đèn. -
Bà già kén vợ cho con
-
Vừa bằng ngón tay
-
Sáu bảy nơi giàu sang tới nói
-
Rung cây nhát khỉ
Rung cây nhát khỉ
-
Ba ông lõng chõng
-
Chàng ơi, trời đã rạng đông
Chàng ơi, trời đã rạng đông,
Chàng dậy ra đồng, thiếp dậy nấu cơm. -
Cơm sôi to lửa thì ngon
Cơm sôi to lửa thì ngon
Cháo sôi to lửa thì còn nồi không -
Khi giàu chẳng có đỡ ai
Khi giàu chẳng có đỡ ai
Đến khi hoạn nạn, chẳng ai đỡ mình -
Một trâu anh sắm hai cày
Một trâu anh sắm hai cày
Một chàng hai thiếp có ngày oan gia
Chả yêu thì bỏ nhau ra
Làm chi một ổ hai gà ấp chung -
Quần ngư tranh thực
-
Dù anh có lỗi hẹn hò
Dù anh có lỗi hẹn hò
Còn duyên đâu dễ con đò sang ngang -
Ruộng gò cấy lúa Nàng Co
-
Đêm khuya trăng lặn dầu hao
Đêm khuya trăng lặn dầu hao
Em ở nơi nào em nói anh nghe -
Sông Gianh nước chảy đôi dòng
-
Trai khôn tránh khỏi đòn quan, gái ngoan tránh khỏi đòn chồng
Trai khôn tránh khỏi đòn quan,
Gái ngoan tránh khỏi đòn chồng
Chú thích
-
- Tùng
- Cây thuộc họ thông, thân và tán có dáng đẹp. Tùng có rất nhiều loại, có loại cao lớn, cũng có loại làm cảnh nhỏ. Theo quan điểm Nho giáo, cây tùng thường được ví với lòng kiên trinh, người quân tử.
-
- Quế
- Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý (Quế chi) trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ.
-
- Nghĩa nhân
- Cũng viết nhân nghĩa, nghĩa là "lòng yêu thương người (nhân) và biết làm điều phải (nghĩa)." Hiểu rộng là đạo nghĩa sống ở đời.
-
- Mãn
- Trọn, đầy đủ, hết (từ Hán Việt).
-
- Đững
- Đừng có... (cách nói của Trung và Nam Bộ).
-
- Nẫu
- Người ta, họ (phương ngữ Bình Định-Phú Yên).
-
- Thạch bàn
- Phiến đá lớn, phẳng như cái mâm.
-
- Bành Tổ
- Cũng có tên là Bành Khang, một nhân vật trong truyền thuyết Trung Quốc. Chuyện kể rằng một hôm Bành Khang nấu một nồi canh gà rừng dâng lên Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng ưng ý, liền bảo: "Nhà ngươi đếm trên mình gà có bao nhiều sợi lông màu sắc rực rỡ thì nhà ngươi sống được bấy nhiêu tuổi". Bành Khang tìm lại đống lông gà, đếm được 800 sợi, nhờ đó sống được 800 tuổi.
Trong văn hóa Trung Quốc, ông Bành Tổ được xem là biểu tượng cho sự trường thọ.
-
- Sâu róm
- Một số nơi gọi là sâu rọm, tên chung của nhiều loại sâu có lông rậm. Lông sâu róm thường có chất độc, người bị chích phải sẽ bị ngứa ngáy hoặc đau nhức ở vùng da tiếp xúc, nếu nặng có thể dẫn đến tử vong.
-
- Nói
- Hỏi cưới (phương ngữ).
-
- Trụ Vương
- Tên thật là Tử Thụ, vị vua cuối đời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc, khét tiếng là một ông vua dâm đãng và tàn ác.
-
- Quần ngư tranh thực
- Đàn cá tranh ăn (chữ Hán). Chỉ những chốn loạn lạc, nơi con người tranh giành nhau về miếng ăn, địa vị.
Hồi năm nọ, một thầy địa lý qua đây có bảo đất làng này vào cái thế “quần ngư tranh thực”, vì thế mà bọn đàn anh chỉ là một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt tử tế với nhau, nhưng thật ra trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ.
(Chí Phèo - Nam Cao)
-
- Gò
- Khoảng đất nổi cao lên giữa nơi bằng phẳng.
-
- Đại
- (Làm việc gì) ngay, chỉ cốt cho qua việc, hoặc không kể đúng sai (khẩu ngữ).
-
- Gò
- Tán tỉnh (phương ngữ).
-
- Sông Gianh
- Còn gọi là Linh Giang hoặc Thanh Hà, con sông chảy qua địa phận tỉnh Quảng Bình, đổ ra biển Đông ở cửa Gianh. Sông Gianh và Đèo Ngang là biểu trưng địa lý của tỉnh Quảng Bình. Trong thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh (1570-1786), sông Gianh chính là ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài.
-
- Từ thế kỉ 17 đất nước ta mắc nạn binh đao, nồi da xáo thịt bởi cuộc tranh giành quyền lực giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn. Quảng Bình, mảnh đất có con sông Gianh là ranh giới tự nhiên giữa Đàng Trong (do chúa Nguyễn kiểm soát) và Đàng Ngoài (do vua Lê chúa Trịnh kiểm soát), lúc ấy là chiến địa của các cuộc giao tranh, từ đó mà có câu ca dao này.