Xưa kia ăn những của chồng
Mới có một đồng đỏng đảnh ăn riêng
Xưa kia ăn những của chồng
Dị bản
Xưa kia ăn những của chồng
Kiếm được một đồng, đủng đỉnh ăn riêng
Xưa kia ăn những của chồng
Mới có một đồng đỏng đảnh ăn riêng
Xưa kia ăn những của chồng
Kiếm được một đồng, đủng đỉnh ăn riêng
Chàng đừng chê thiếp vụng về
Có tiền thiếp cũng biết thuê mượn người
Nước trong nước chảy quanh chùa
Không yêu ta cũng bỏ bùa cho yêu
Trèo lên quán dốc cây đa
Gặp chị bán rượu là đà say sưa.
Ăn Bắc, mặc Nam
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.
Anh đóng đanh lỗ đít
Chị xách bị đầu hè
Thuyền dời nhưng bến chẳng dời
Bán buôn là nghĩa muôn đời cùng nhau.
Ngày xưa chống Mỹ chống Tây
Ngày nay chống gậy ăn mày áo cơm
Trời sinh con khỉ ở lùm
Chuyền qua chuyền lại rớt ùm xuống sông
Bạo phát bạo tàn
Trồng tre trở gốc lên trời
Con chị qua đời thì cưới con em
Vinh Ba đan cót đan gàu
Phú Diễn chằm nón, xóm Bầu vớt rong
Phú Thuận dệt vải bắn bông
Phú Nhiêu, Thạnh Phú, Đồng Lâm chai đèn
Quê hương Kinh Bắc có dân ca quan họ và lễ hội Gióng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Ai về xứ Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
(Huỳnh Văn Nghệ)
Trong thơ văn cổ, Thăng Long cũng được gọi là Long Thành (kinh thành Thăng Long), ví dụ tác phẩm Long Thành cầm giả ca (Bài ca về người gảy đàn ở Thăng Long) của Nguyễn Du.
Cõi trần thế nhân sinh là khách cả
Nợ phong lưu kẻ giả có người vay
(Nợ phong lưu - Nguyễn Công Trứ)
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
Mai sau dầu đến thế nào,
Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần
(Truyện Kiều)