Cái khó bó cái khôn
Cái khó bó cái khôn
Dị bản
Cái khó ló cái khôn
Cái khó bó cái khôn
Cái khó ló cái khôn
Giấy trắng mực đen
Đói no một vợ một chồng
Một niêu cơm tấm mà thương nhau đời
Chó ngáp phải ruồi
Vợ đẹp kém ngủ
Nghe tin em đã có con bồng,
Anh cho riêng đồng bạc, đúc chiếc vòng cháu đeo
Em về Bồ Địch giếng vuông
Sáo treo bốn bức, em buồn nỗi chi?
– Anh buồn em lại vui chi?
Vui thời vui gượng có khi khóc thầm.
Anh về Bồ Địch giếng vuông
No cơm ấm chiếu, luông tuồng bỏ em
Trưa thời cấy lúa đau lưng
Ai vô cấy thế thì ưng tới chiều
Phượng hề phượng hề quy cố hương
Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng
Thời vị ngô hề vô sở tương
Hữu diện thục nữ tại khuê phường
Thất nhĩ ngân hà, sầu ngã trường
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương hiệt ương hề cộng cao tường
Trong Bích Câu Kỳ ngộ có câu:
Cầu hoàng tay lựa nên vần
Tương Như lòng ấy Văn Quân lòng nào
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
Một sông hai nước (Việt - Pháp) không thể thương thuyết,
Bốn tháng ba vua điềm chẳng lành
Sau khi vua Tự Đức mất, quyền hành ở triều đình Huế rơi vào tay Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Trong bốn tháng, từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1983, hai ông đã phế và lập 3 vua: Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc. Câu này ra đời trong hoàn cảnh đó. Cái hay là cuối mỗi câu có tên hai ông: Thuyết và Tường.