Con sắt vật ngã ông Đùng
Đắp mười chiếc chiếu không cùng bàn tay
Ngẫu nhiên
-
-
Con nhạn kêu sương, gà thường gáy huỡn
-
Bán chịu mất mối hàng
Bán chịu mất mối hàng
-
Đêm nghe tiếng trống đổ hồi
Đêm nghe tiếng trống đổ hồi
Nghĩ thương đất nước ai bồi ai khơi! -
Người còn thì của cũng còn
Người còn thì của cũng còn
Miễn là nhân nghĩa vuông tròn thì thôi -
Yêu nhau một cái lá đa
Yêu nhau một cái lá đa
Nửa nằm, nửa đắp hơn nhà năm gian -
Một con một của chẳng ai từ
Một con một của chẳng ai từ
-
Trời gầm, mưa lớn anh ơi
-
Rẻ mua chơi, đắt nghỉ ngơi đồng tiền
Rẻ mua chơi, đắt nghỉ ngơi đồng tiền
-
Vì sương cho núi bạc đầu
Vì sương cho núi bạc đầu,
Vì tình em bạc nên sầu lòng anh -
Muốn ăn cơm trắng cá kho
Muốn ăn cơm trắng cá kho
Trốn cha trốn mẹ xuống đò theo anh -
Mua vui dưới ánh trăng trong
Mua vui dưới ánh trăng trong
Có con cũng hát, có chồng cũng vui
Con thời em mướn vú nuôi
Chồng thời em để hát nơi xóm nhà -
Cha làm thầy con đốt sách
Cha làm thầy con đốt sách
-
Bởi thương sớm đợi, tối chờ
Bởi thương sớm đợi, tối chờ
Không thương ai ở dật dờ chi đây -
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ
-
Hỡi ai đi trước kia ơi
Hỡi ai đi trước kia ơi
Có lò đúc trẻ, cho tôi mượn cùng! -
Khoan khoan gá nghĩa
Khoan khoan gá nghĩa
Thủng thỉnh giao hòa
Để cho em hỏi cửa nhà ra sao?
Anh em thúc bá thế nào?
Nói ra em biết âm hao em tường
Hà miền, hà thị, hà phương,
Hà quê, hà quán em chưa tường đục trong,
Và đây lời hỏi sau cùng,
Nói ra cho em biết đã tơ hồng đâu chưa ?
– Xa xôi chi đó mà hỏi miền hỏi thị
Lạ lùng chi em mà hỏi quán hỏi quê
Bình Dương vốn thật quê chàng,
Lánh nơi thành thị lạc đàng núi non
Xuân xanh hai tám tuổi tròn,
Hoa còn ẩn nhụy chờ bình đơm bông.Dị bản
Khoan khoan gá nghĩa
Thủng thỉnh giao hòa
Để cho em hỏi cửa nhà ra sao?
Anh em thúc bá thế nào?
Nói ra em biết âm hao em tường
Hà miền, hà thị, hà hương,
Hà quê, hà quán em chưa tường đục trong,
Và đây lời hỏi sau cùng,
Nói ra cho em biết đã tang bồng đâu chưa?
– Xa xôi chi đó,
Kẻ đơn người tống,
Lạ lùng gì em phải hỏi han.
Ở đây vốn thật quê chàng,
Lánh nơi thành phố lạc đàng núi non.
Xuân thu hai tám tuổi tròn,
Hoa còn ẩn nhụy chờ bình đơm bông .
-
Nồi da nấu thịt
-
Bí ngô là cô đậu nành
Bí ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột cậu ruột dưa gang
Dưa gang cùng hàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu bí ngô
Bí ngô là cô đậu nành.Dị bản
Lúa ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang
Dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu lúa ngô
-
Bởi anh đành đoạn, đốn ngọn cây bần
Chú thích
-
- Săn sắt
- Còn gọi là cá thia lia hoăc cá thia, cá cờ, một loại cá nước ngọt hoặc nước lợ, thân hình rất nhỏ nhưng rất phàm ăn.
-
- Ông Đùng bà Đà
- Đôi vợ chồng khổng lồ vào thời hỗn mang trong thần thoại Việt Nam, có thân hình rất cao lớn và sức khoẻ phi thường.
-
- Cùng
- Khắp, che phủ hết.
-
- Theo Vũ Ngọc Phan: Một hôm ông Đùng lội qua suối bị con cá săn sắt cắn vào chân, làm ông giật mình, ngã lăn xuống bờ suối. Thường thì một con vật rất nhỏ cắn vào chân người ta một cách bất ngờ, cũng làm người ta giật mình mà trượt. Từ thực tế ấy, người ta có thể nhận định: nếu nhỏ và yếu mà đánh vào một lực lượng to lớn và khỏe một cách bất ngờ thì vẫn có thể thắng được [...] Còn vế dưới của câu trên "Đắp mười chiếc chiếu không cùng bàn tay" có nghĩa là đắp chiếu lồng cồng, người có ấm, nhưng dù có đắp đến mười chiếc chiếu thì bàn tay vẫn còn cóng, vẫn lạnh, phải ủ bàn tay vào áo thì ngủ mới yên. Như vậy, không phải cứ lấy số đông ào ạt mà đã tác động hoặc áp đảo được một thứ gì nhỏ bé, vây kín được một vật gì nhỏ bé (Tục ngữ ca dao dân ca Viêt Nam, NXB Khoa Học Xã Hội, in lần thứ 9, 1992, tr.68)
-
- Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
-
- Huỡn
- Thủng thỉnh, chậm chạp (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Đụt
- Trú mưa (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Hồ Hoàn Kiếm
- Còn gọi là hồ Gươm, hồ Hoàn Gươm, Lục Thủy, Thủy Quân, Tả Vọng, Hữu Vọng, một hồ nước ngọt tự nhiên thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Tên gọi Hoàn Kiếm (trả gươm) xuất hiện vào đầu thế kỷ 15, gắn với truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả gươm báu cho rùa thần.
-
- Cầu Thê Húc
- Cây cầu gỗ sơn màu đỏ, nối bờ hồ Hoàn Kiếm với cổng đền Ngọc Sơn (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), được Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1865. Cầu bị gãy vào năm 1953 và được sửa lại, gia cố phần móng bằng xi măng. Tên cầu Thê Húc 棲旭 nghĩa là "đón ánh sáng mặt trời buổi sớm."
-
- Đền Ngọc Sơn
- Một ngôi đền nằm trên đảo Ngọc, nay thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Đền có từ trước thời Lý, được xây mới và tu sửa nhiều lần, có nhiều tên gọi khác nhau như đền Ngọc Tượng, chùa Ngọc Sơn... đến thế kỉ XIX được xây mới và đổi tên thành đền Ngọc Sơn. Đền hiện nay do Nguyễn Văn Siêu tu sửa năm 1865, đắp thêm đất và kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc cầu Thê Húc.
-
- Đài Nghiên
- Tên một cái cổng ở đầu cầu Thê Húc, trên cổng có đặt nghiên mực bằng đá hình quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có tạc ba con ếch đội nghiên. Trên nghiên có khắc một bài minh (một thể văn xưa) của Nguyễn Văn Siêu. Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành.
-
- Tháp Bút
- Tên một tòa tháp ở Hồ Gươm (Hà Nội). Tháp được xây dựng từ thời vua Tự Đức, làm bằng đá, cao năm tầng, đỉnh có hình một chiếc bút lông chỉ lên trời.
-
- Gá nghĩa
- Kết nghĩa (gá nghĩa vợ chồng, gá nghĩa anh em), tiếng miền Nam còn đọc trại thành gá ngãi.
-
- Nghĩa giao hòa
- Nghĩa vợ chồng (dùng trong ca dao dân ca).
-
- Âm hao
- Tin tức. Như âm háo 音耗 tăm hơi. Ta quen đọc là âm hao (từ điển Thiều Chửu).
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
Dịch thơ:
Xa cách các em tin tức bặt
Bình yên mấy chữ thấy đâu mà.
(Sơn cư mạn hứng - Nguyễn Du, người dịch: Nguyễn Thạch Giang)
-
- Tường
- Rõ ràng, hiểu rõ, nói đủ mọi sự không thiếu tí gì. Như tường thuật 詳述 kể rõ sự việc, tường tận 詳盡 rõ hết sự việc (Thiều Chửu).
-
- Tơ hồng
- Xem chú thích Nguyệt Lão.
-
- Bình Dương
- Một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, có tỉnh lị là thành phố Thủ Dầu Một, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30 cây số. Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai lập thành tam giác kinh tế mũi nhọn của miền Nam.
-
- Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Thúc bá
- Chú bác (từ Hán Việt).
-
- Tang bồng
- Cung bằng gỗ dâu (tang) và tên bằng cỏ bồng. Theo Kinh Lễ, khi nhà vua sinh con trai, quan coi việc bắn sẽ lấy cung bằng gỗ dâu và tên bằng cỏ bồng, bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời, một phát xuống đất, ngụ ý rằng người làm trai chí ở bốn phương, tung hoành trời đất, giúp nước giúp đời. Chí làm trai vì thế gọi là chí tang bồng.
-
- Nồi da nấu thịt
- Có bản chép "nhồi" và biến nghĩa câu thành ngữ này theo hướng hình tượng hơn, trực tiếp hơn. Điển tích ghi lại cho thấy "nồi da nấu thịt" lại xuất phát từ chuyện thợ săn ngày xưa đi săn phải làm thịt thú ăn ngay giữa rừng. Vì không có nồi, họ thường lột da thú căng ra làm nồi để nấu thịt con thú ấy. Câu này nói ý cùng ruột rà máu mủ mà hại lẫn nhau.
-
- Bí ngô
- Một giống bí cho quả tròn, khi chín thịt có màu đỏ hoặc vàng cam, dùng để nấu canh. Tùy theo vùng miền mà người ta gọi là bí ngô, bí đỏ, hoặc bí rợ.
-
- Đậu nành
- Một giống đậu rất phổ biến ở nước ta và trên cả thế giới. Hạt đậu nành được sử dụng rất đa dạng, bao gồm dùng trực tiếp (rang, luộc, nấu canh, nấu chè...) hoặc chế biến thành đậu phụ, ép thành dầu đậu nành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa...
-
- Dưa chuột
- Một giống dưa cho quả vỏ xanh, có nhiều nước, ăn rất mát. Dưa chuột còn là một vị thuốc dân gian, có tác dụng giảm đau, giảm rát họng, làm đẹp da. Ở miền Nam, giống dưa này được gọi là dưa leo.
-
- Dưa gang
- Một loại dưa quả dài, vỏ xanh pha vàng cam (càng chín sắc vàng càng đậm), kích thước tương đối lớn.
-
- Bần
- Còn gọi là cây thủy liễu, loài cây gặp nhiều ở các vùng ngập mặn Nam Bộ. Gỗ bần chủ yếu dùng làm chất đốt, còn trái bần có vị chua, chát với mùi thơm đặc trưng được chế biến thành nhiều món ăn đặc sản của Nam Bộ như mắm bần, lẩu cá nấu bần, mứt bần, kẹo bần...
-
- Ghe cá
- Còn gọi là ghe rỗi, dùng để chuyên chở cá đồng từ miền Tây về Sài Gòn. Loại ghe này có điểm đặc biệt là mực nước trong ghe luôn cân bằng với mực nước sông bên ngoài để giữ cá luôn sống và ghe cũng luôn vững.
-
- Ghe
- Thuyền nhỏ, thường đan bằng tre (gọi là ghe nan) hoặc bằng gỗ. Từ này đôi khi được dùng để chỉ tàu thuyền nói chung, nhất là ở vùng Trung và Nam Bộ.