Chơi trăng từ thuở trăng tròn
Chơi hoa từ thuở hoa còn trên cây.
Ngẫu nhiên
-
-
Lủi thủi như hủi đi chợ trưa
Lủi thủi như hủi đi chợ trưa
-
Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối
Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối
-
Mắt phượng, mi mỏng, mày cong
-
Cá nằm trên thớt
Cá nằm trên thớt
Dị bản
-
Ổi Quảng Bá, cá Hồ Tây
-
Khăn lau nước mắt ướt mèm
-
Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở
– Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở
Anh đến tìm đò, đò đã sang sông
Anh đến tìm em, em đã lấy chồng
Em yêu anh như rứa có mặn nồng chi mô?
– Hoa đến kì thì hoa phải nở
Đò đã đầy thì đò phải sang sông
Đến duyên thì em phải lấy chồng
Em yêu anh rứa đó, còn mặn nồng thì tùy anhDị bản
Anh đến giàn hoa thì hoa kia đã nở
Anh đến bến đò thì đò đã sang sông
Đến em thì em đã lấy chồng
Em thương anh như rứa hỏi có mặn nồng cấy chi
– Anh đến giàn hoa, hoa đến kì thì hoa phải nở
Anh đến bến đò, đò đầy thì đò phải sang sông
Đến duyên em, cha mẹ ép phải lấy chồng
Dừ trách nhau chi lắm cho cực lòng nhau thêm.
-
Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa
-
Hỡi ơi chú tiểu trên chùa
-
Chim kia vì bởi tham ăn
Chim kia vì bởi tham ăn
Mà vương phải lưới người giăng đấy rồi
Cá kia vì bởi tham mồi
Mà mắc phải lưỡi câu người cắm đây -
Biển cạn, sông cạn, lòng qua không cạn
Biển cạn, sông cạn, lòng qua không cạn
Núi lở non mòn, ngỡi bạn không quên
Ðường còn đi xuống đi lên,
Tình qua nghĩa bậu quyết nên vợ chồng.Dị bản
Sông cạn, biển cạn lòng ta không cạn
Núi lở non mòn, nghĩa bạn không quên
Đường còn đi xuống đi lên
Ơn bạn bằng biển, ta đền bằng non
Đường mòn duyên nợ không mòn
Chết thì mới hết, sống còn gặp nhau
Lời nguyền trước cũng như sau
Em không phụ khó, ham giàu ở đâu
-
Hừng đông vỗ cửa kêu nàng
Hừng đông vỗ cửa kêu nàng
Sao không mở cửa dọn hàng bán buôn -
Cha bằng dái, con bằng khái
-
Em ơi ta nguyện nhau cùng
-
Nón anh quai xanh quai đỏ, đồ bỏ mái hè
-
Sơn cách, thủy cách, lòng không cách
-
Cha mẹ đánh tui, chạy giáp vòng thành
-
Thuyền rồng chở lá mù u
-
Thương nhau thì cho ăn xôi
Chú thích
-
- Mắt phượng
- Đôi mắt đẹp, to, dài, và hơi xếch lên như mắt phượng hoàng.
-
- Trốc
- Đầu, sọ (phương ngữ).
-
- Quảng Bá
- Tên cũ là Quảng Bố, một làng cổ nằm ven đê sông Hồng và bên bờ Hồ Tây, nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Quảng Bá nổi tiếng từ xưa với nghề trồng rau, trồng đào và các loại hoa Tết. Tuy nhiên, hiện nay diện tích trồng các loại hoa đã bị thu hẹp trong quá trình đô thị hóa.
-
- Hồ Tây
- Còn có các tên gọi khác như đầm Xác Cáo, hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ, là hồ nước tự nhiên lớn nhất ở nội thành Hà Nội, có diện tích hơn 500 ha với chu vi là 18 km. Hồ là một đoạn của sông Hồng ngày trước. Từ xa xưa, hồ Tây đã là một thắng cảnh nổi tiếng, nhiều lần được đưa vào văn chương nghệ thuật.
-
- Hàng Đào
- Một con phố của Hà Nội xưa, nay thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, phía nam là quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sát bờ hồ Hoàn Kiếm, đầu phía bắc giáp phố Hàng Ngang. Ở đây còn di tích của trường Đông Kinh Nghĩa Thục (nhà số 10). Tên phố có nguồn gốc từ mặt hàng vải nhuộm đỏ được bán nhiều ở phố.
-
- Chữ đồng
- Từ cụm từ Hán Việt "đồng tâm đái," hoặc "dải đồng," chỉ sợi thắt lưng ngày xưa có hai dải lụa buộc lại với nhau. Văn chương cổ dùng từ "chữ đồng" hoặc "đạo đồng" để chỉ sự kết nguyền chung thủy của vợ chồng.
Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
(Truyện Kiều)
-
- Rứa
- Thế, vậy (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Chi mô
- Gì đâu (phương ngữ miền Trung).
-
- Cấy chi
- Cái gì (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Dừ
- Giờ, bây giờ. Còn đọc là giừ (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Rồng lấy nước
- Còn gọi là vòi rồng, là hiện tượng một cột gió xoáy có đầu trên tiếp xúc với một đám mây, trong khi đầu dưới lại quét trên mặt đất. Sức gió rất nhanh và mạnh trong vòi rồng hút các vật từ mặt đất lên, đồng thời ngưng tụ hơi nước trong không khí thành những hạt nước nhỏ li ti, nên nhìn từ xa giống như có con rồng trên mây chúi đầu xuống hút nước. Tùy vào màu sắc của đám mây và ánh sáng, vòi rồng có thể có màu trắng, xám, hay đen.
-
- Tiểu
- Người mới tập sự tu hành trong đạo Phật, thường tuổi còn nhỏ.
-
- Qua
- Từ người lớn dùng để tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi chút tính chất khách quan, nhưng thân tình (Từ điển từ ngữ Nam Bộ - Huỳnh Công Tín).
-
- Ngỡi
- Tiếng địa phương Nam Bộ của "ngãi" (nghĩa, tình nghĩa).
-
- Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Khái
- Con hổ.
-
- Cha bằng dái, con bằng khái
- Tương tự câu Con hơn cha là nhà có phúc.
-
- Hè
- Dải đất nền phía trước hoặc chung quanh nhà.
-
- Sơn
- Núi (từ Hán Việt).
-
- Thủy
- Nước (từ Hán Việt), cũng chỉ sông nước.
-
- Nghĩa nhân
- Cũng viết nhân nghĩa, nghĩa là "lòng yêu thương người (nhân) và biết làm điều phải (nghĩa)." Hiểu rộng là đạo nghĩa sống ở đời.
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Người nghĩa
- Người thương, người tình.
-
- Mù u
- Một loại cây gỗ lớn khá quen thuộc ở Trung và Nam Bộ. Cây mù u cùng họ với cây măng cụt, lớn chậm, gỗ cứng, thường mọc dọc bờ sông rạch, quả tròn, vỏ mỏng, hạt rất cứng có thể dùng để ép lấy dầu. Dầu mù u có nhiều dược tính và được dùng làm nhiều loại thuốc, ví dụ như thuốc trị bòng và chăm sóc da. Xưa kia, người dân Nam Bộ thường dùng dầu mù u như một nhiên liệu tự nhiên sẵn có và rẻ tiền để thắp đèn. Cây mù u còn cho gỗ tốt, thường được dùng để đóng ghe thuyền.
-
- Hạ Bì
- Một xã thuộc huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình.