Lói ngọng là tại hướng đình,
Cả làng lói ngọng chứ mình em đâu
Lói ngọng là tại hướng đình
Dị bản
Toét mắt là tại hướng đình,
Cả làng toét mắt có mình gì tôi
Lói ngọng là tại hướng đình,
Cả làng lói ngọng chứ mình em đâu
Toét mắt là tại hướng đình,
Cả làng toét mắt có mình gì tôi
Kiểng xa bồn, kiểng lại héo queo
Anh xa người nghĩa như lồng đèn treo hết dầu
Trời mưa trời gió
Vác đó đi đơm
Trở về ăn cơm
Trở ra mất đó
Kể từ ngày thương đó, đó ơi
Ðó chưa thưa được một lời cho đây nghe
Cả thuyền cả sóng
To thuyền lớn sóng
Em như hoa nở trên cành
Anh như con bướm lượn vành khát khao
Việc người thì sáng
Việc mình thì quáng
Dẫu mà không lấy được em
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu
– Tu mô cho em tu cùng
May ra thành Phật thờ chung một chùa
Trăm năm tượng rách còn thờ
Lỡ duyên chịu lỡ cũng chờ mình anh
Tượng linh dẫu rách cũng thờ
Lỡ thì chịu lỡ cũng chờ mối anh
Lá thư tình xưa nhớ lúc trao tay
Còn e ấp thuở duyên vừa mới bén
(Lá thư ngày trước - Vũ Hoàng Chương)
Cuối năm 1771, khi Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm hồi hưu, dân làng dựng một ngôi đình tạm ba gian, ngay trước bến sông, cắm cờ rợp trời từ bến sông đến cổng chính gia tộc họ Nguyễn để đón rước. Để đáp lại tấm lòng của dân làng, ông đã bỏ tiền xây lại ngôi đình trước bến thành ngôi đình khang trang, làm nơi hội họp và lễ mừng đăng khoa. Từ đó, bến sông này được mang tên bến Giang Đình. Hiện nay tại đây chỉ còn lại vài dấu vết như gốc cây đa, giếng nước, lò nung vôi.