Câu cá, cá chẳng ăn mồi
Đừng câu mà mệt, đừng ngồi mà trưa
– Đợi lâu cá chẳng ăn mồi
Anh móc vào con tôm bạc, cá lần hồi cũng mắc câu
Ngẫu nhiên
-
-
Chim sa, cá lụy đừng theo
-
Ai làm Nam Bắc phân kì
-
Hiu hiu gió thổi ra khơi
-
Còn ăn còn ngủ còn gân
-
Nuôi lợn thì phải vớt bèo
-
Con ơi đừng khóc mẹ sầu
-
Tôi tới đây xin mở lời chào anh em trai quân tử
-
Ngày mai phân rẽ bá tòng
-
Hỡi anh đi đường cái quan
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời
Đi đâu vội thế anh ơi
Công việc đã có chị tôi ở nhàDị bản
Hỡi anh đi đường cái quan
Xin anh đứng lại em than vài lời
Đi đâu vội mấy anh ơi
Cái quần, cái áo như người nhà ta
Cái ô em để trong nhà
Khen ai mở khóa đưa ra cho chàng
-
Ngồi buồn quăng đá xuống sông
Ngồi buồn quăng đá xuống sông
Quăng đá đá nổi, quăng bông bông chìm. -
Trách người quân tử vô danh
Dị bản
Trách người quân tử gian manh
Chơi hoa rồi lại hái cành kế bênTrách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao
-
Cơm chiên ăn với cá ve
Dị bản
-
Nguyện thề trước miếu sau đình
Nguyện thề trước miếu sau đình
Đó vong ân đó chịu, đây bạc tình đây mang -
Đờn cầm đờn sắt đờn ca
-
Cầm lược lại nhớ đến gương
Cầm lược lại nhớ đến gương
Cầm khăn nhớ túi, nằm giường nhớ nhauDị bản
Cầm lược thì nhớ đến gương
Nằm chăn nhớ chiếu, nằm giường nhớ nhauCầm lược thì nhớ tới gương,
Cầm khăn nhớ túi, đi đường nhớ nhau
-
Mi nhỏ như sợi chỉ mành
-
Bá Nha vắng mặt Tử Kỳ
-
Xuống lên lên xuống thăm chừng
Xuống lên, lên xuống thăm chừng
Thấy hoa tươi tốt cũng mừng cho hoa
Thấy hoa muốn bẻ muốn xin
Sợ e có kẻ giữ gìn gốc hoa -
Vượn bồng con lên non cắn trái
Chú thích
-
- Tôm bạc
- Còn gọi là tôm thẻ chân trắng, vì chân trắng vỏ mỏng có màu trắng đục nên gọi là tôm bạc. Tôm bạc là một loại hải sản quý.
-
- Lần hồi
- Lần lần, từ từ, ngày này qua ngày khác.
-
- Chim sa, cá lụy
- Theo mê tín, chim sa xuống và cá chết là những điềm báo xui xẻo.
-
- Phân kì
- Chia li, mỗi người mỗi ngả.
Đoạn trường thay lúc phân kì
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
(Truyện Kiều)
-
- Sào
- Gậy dài, thường bằng thân tre. Nhân dân ta thường dùng sào để hái trái cây trên cao hoặc đẩy thuyền đi ở vùng nước cạn.
-
- Vắn
- Ngắn (từ cổ).
Tự biệt nhiều lời so vắn giấy
Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền
(Bỏ vợ lẽ cảm tác - Nguyễn Công Trứ)
-
- Khôn
- Khó mà, không thể.
-
- Mần
- Làm (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Như mần ăn, mần việc, đi mần...
-
- Cheo
- Khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái khi làm lễ dạm hỏi theo tục lệ xưa.
-
- Long Môn
- Tên một con tàu của người Hoa dưới thời Pháp thuộc, chuyên chạy đường sông Hồng, chở khách và hàng hóa từ Hà Nội xuống Nam Ðịnh, Thái Bình và ngược lại.
-
- Thục nữ
- Người con gái hiền dịu, nết na (từ Hán Việt).
-
- Thuyền quyên
- Gốc từ chữ thiền quyên. Theo từ điển Thiều Chửu: Thiền quyên 嬋娟 tả cái dáng xinh đẹp đáng yêu, cho nên mới gọi con gái là thiền quyên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
(Truyện Kiều)
-
- Nhởi
- Chơi (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Bá tòng
- Cây bá (trắc) và cây tùng, hai loại cây sống rất lâu năm. Bá tòng vì thế tượng trưng cho tình nghĩa lâu bền. Đồng thời bá tòng cũng chỉ sự tu hành, vì hai loại cây này thường được trồng ở sân chùa.
-
- Đường cái quan
- Cũng gọi là đường thiên lí, quan báo, quan lộ, tuyến đường bộ quan trọng bậc nhất nước ta, bắt đầu từ địa đầu biên giới phía bắc ở Lạng Sơn cho tới cực nam Tổ quốc ở Cà Mau. Đường cái quan được cho là xây dựng từ thời nhà Lý, theo dòng Nam tiến của dân tộc mà kéo dài dần xuống phương nam. Đường được tu bổ và hoàn thiện dưới triều Nguyễn rồi mở rộng thêm trong thời Pháp thuộc.
Nghe bản trường ca Con đường cái quan của nhạc sĩ Phạm Duy.
-
- Tương truyền bài ca dao này nói về việc Trần Cảnh cưới Lý Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng nhường ngôi vua, sau giáng bà xuống làm công chúa rồi gả cho danh tướng dưới quyền là Lê Phụ Trần.
-
- Nốc
- Cổ ngữ Việt chỉ thuyền, ghe. Ngày nay chỉ thuyền nhỏ, còn dùng ở miền Bắc Trung Bộ.
-
- Sắt cầm
- Đàn sắt và đàn cầm, hai loại đàn của Trung Quốc. Tương truyền, đàn sắt do vua Phục Hy chế ra vào khoảng gần ba nghìn năm trước công nguyên, còn đàn cầm do vua Thuấn chế ra khoảng một nghìn năm sau đó. Đàn sắt và đàn cầm thường được đánh hòa với nhau, vì vậy chữ sắt cầm, duyên cầm sắt được dùng để chỉ tình cảm vợ chồng.
Chàng dù nghĩ đến tình xa
Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ
(Truyện Kiều)
-
- Nghĩa giao hòa
- Nghĩa vợ chồng (dùng trong ca dao dân ca).
-
- Ngũ cung
- Năm âm giai trong âm nhạc dân tộc: Hò, Xự, Xang, Xê, Cống (tương đương với Sol, La, Do, Re, Mi ngày nay). Ở miền Nam có thêm hai âm là Liếu (Líu) và Ú, thật ra là hai nấc trên của Hò và Xự.
-
- Xàng xê
- Đung đưa, đảo qua đảo lại để gợi tình (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Cũng nói là xàng xự.
-
- Chỉ mành
- Sợi chỉ mỏng manh. Từ này thường dùng để chỉ những sự vật, sự việc không chắc chắn.
-
- Bá Nha, Tử Kỳ
- Xem chú thích tri âm.
-
- Đờn
- Đàn (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Sớ lỡ
- Lỡ, lầm (phương ngữ Bình Định - Phú Yên).
-
- Rủng rải
- Thủng thỉnh, thủng thẳng (phương ngữ Bình Định - Phú Yên).