Kiểng xa bồn, kiểng không xanh
Anh rầu người nghĩa, cơm canh bỏ liều.
Kiểng xa bồn, kiểng không xanh
Dị bản
Kiểng xa bồn, kiểng lại héo queo
Anh xa người nghĩa như lồng đèn treo hết dầu
Kiểng xa bồn, kiểng lại héo queo
Anh xa người nghĩa như lồng đèn treo hết dầu
Đèn lồng treo cột phướn, gió chướng thổi hao dầu,
Em có thương anh thì để dạ, chớ có rầu mà hư thân.
Gió đưa cột phướn hao dầu
Thương em để dạ, chớ sầu mà hư!
Gặp anh trước hỏi sau chào
Năm nay anh có nơi nào hay chưa?
Có rồi năm ngoái năm xưa
Năm nay bỏ vợ như chưa có gì!
Gan vàng chẳng cắt mà đau
Cách em một chút một rầu như dưa
Gan vàng chẳng cắt mà đau
Cách em một phút dạ rầu như dưa
Ðêm qua mới gọi là đêm
Ruột xót như muối, dạ mềm như dưa
Ðấy Đông thì đây bên Tây
Ðây chưa có vợ, đấy nay chưa chồng.
Con trai chưa vợ đã xong,
Con gái chưa chồng, buồn lắm em ơi!
Xin em một miếng trầu vàng,
Mai sau anh trả cho nàng hoa tai
Cho anh một lá trầu vàng
Sang năm anh trả cho nàng một mâm
Anh xa em anh ăn cơm với cá
Em xa anh, em chan nước mắt thay canh.
Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thất thểu như chim tha mồi
Nhớ ai hết đứng lại ngồi
Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân
Gái đâu gái hỗn gái hào
Trai chưa vô làm rể gái đã vào làm dâu
Gái đâu có thứ hỗn hào
Trai chưa làm rể, gái vào làm dâu
Đôi ta tuổi lứa đang vừa
Trách cho cha mẹ kén lừa nơi mô
Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.
Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng
Gác tình duyên cũ chẳng đường trông
Song le hương khói yêu đương vẫn
Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng
(Giây phút chạnh lòng - Thế Lữ)
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
Một chàng vừa trạc thanh xuân
Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng
(Truyện Kiều)
Nghe một bài hò mái nhì.
Nghe bài hát Quế Sơn đất mẹ ân tình của nhạc sĩ Đình Thậm.