Một năm là mấy tháng xuân
Một ngày được mấy giờ Dần sớm mai?
Ca dao – Dân ca
-
-
Người khôn chưa đắn đã đo
Người khôn chưa đắn đã đo
Chưa đi đến bể, đã dò nông sâu -
Cóc kêu dưới rãnh tre ngâm
-
Trăm năm xe sợi chỉ hồng
-
Chuộng chuối, chuối lại cao tàu
-
Cực tình ta lắm bạn ơi
-
Mẹ già hai đứa nuôi chung
Mẹ già hai đứa nuôi chung
Đứa lo cơm cháo, đứa giùm thuốc thangDị bản
Mẹ già là mẹ già chung
Anh lo thang thuốc, em giùm cháo cơm
-
Anh đà có vợ hay chưa
Anh đà có vợ hay chưa
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào?
Mẹ già anh ở nơi nao?
Để em tìm vào hầu hạ thay anh -
Niềm kim thạch, nghĩa cù lao
-
Ơn hoài thai như biển
-
Anh chết ba năm sống lại một giờ
– Anh chết ba năm sống lại một giờ
Để xem người ngọc phụng thờ ra sao?
– Thờ chàng đĩa muối đĩa rau
Thờ cha kính mẹ mâm cao cỗ đầyDị bản
Anh nằm chết thử vài giờ
Để xem con vợ ruột nó phụng thờ ra sao?
-
Cồng cộc bắt cá dưới sông
-
Cồng cộc bắt cá dưới bàu
-
Ngó lên nhang tắt, đèn mờ
-
Bước vô trường án, vỗ ván cái rầm
-
Nuôi con mới biết sự tình
Nuôi con mới biết sự tình
Cảm thương cha mẹ nuôi mình ngày xưaDị bản
Nuôi con mới biết sự tình
Thầm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa
-
Cha già tuổi đã dư trăm
-
Vua tôi sẵn có nghĩa dày
-
Chữ rằng: vấn tổ tầm tông
-
Làm trai quyết chí tang bồng
Chú thích
-
- Ngâm tre
- Một phương thức bảo quản tre truyền thống. Trước khi dùng vào công việc đan lát, xây dựng, thủ công mĩ nghệ, tre thường được ngâm nước một thời gian cho "chín tre," phòng mối mọt, nấm mốc phá hoại. Thời gian ngâm tre có thể kéo dài từ vài tuần đến cả năm, tùy theo mục đích sử dụng. Tre ngâm có mùi hôi thối khó chịu.
-
- Tơ hồng
- Xem chú thích Nguyệt Lão.
-
- Khuôn trời
- Khuôn do trời định, hay duyên tiền định. Người xưa ví tạo hóa sinh ra muôn vật như người ta dùng khuôn nặn đồ gốm, vì vậy thường gọi tạo hóa là khuôn thiêng, khuôn xanh, và tình duyên do trời định là khuôn duyên.
-
- Tàu
- Lá to, cuống dài của một số loài cây (tàu chuối, tàu dừa).
-
- Phèn chua
- Một loại muối có tinh thể to nhỏ không đều, không màu hoặc trắng, cũng có thể trong hay hơi đục. Người ta dùng phèn chua để đánh nước cho trong hoặc làm thuốc giữ màu trong quá trình nhuộm vải.
-
- Én
- Loài chim nhỏ, cánh dài nhọn, đuôi chẻ đôi, mỏ ngắn, thường bay thành đàn.
-
- Đá vàng
- Cũng nói là vàng đá, lấy ý từ từ Hán Việt kim thạch. Kim là kim khí để đúc chuông, đỉnh. Thạch là đá. Ngày trước, những lời vua chúa hoặc công đức của nhân vật quan trọng được khắc ghi trên bia đá hay chuông, đỉnh đồng để lưu truyền mãi mãi. Đá vàng vì thế chỉ sự chung thủy son sắt, hoặc sự lưu truyền tên tuổi mãi mãi về sau.
-
- Chín chữ cù lao
- Tức cửu tự cù lao, chỉ công lao khó nhọc của bố mẹ. (Cù 劬: nhọc nhằn; lao: khó nhọc). Theo Kinh Thi, chín chữ cù lao gồm: Sinh - đẻ, cúc - nâng đỡ, phủ - vuốt ve, súc - cho bú mớm lúc nhỏ, trưởng - nuôi cho lớn, dục - dạy dỗ, cố - trông nom săn sóc, phục - xem tính nết mà dạy bảo cho thành người tốt, và phúc - giữ gìn.
-
- Tuyền
- Toàn.
-
- Ngãi
- Nghĩa, tình nghĩa (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Dưỡng dục
- Nuôi nấng (từ chữ Hán 養育).
-
- Tợ
- Tựa như, giống như (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Phòng không
- Buồng trống không có ai, ý nói ở vậy, không lấy vợ hay chồng.
-
- Người ngọc
- Người đẹp, được ví như ngọc.
-
- Cồng cộc
- Tên gọi miền Nam của chim cốc đế, một loại chim làm tổ trong các rừng ngập mặn đồng bằng sông Cửu Long. Chim có đầu, mào, cổ toàn bộ mặt lưng và đuôi màu đen, cánh xanh lục hay tím đỏ. Thức ăn chủ yếu là cá.
-
- Bàu
- Chỗ sâu trũng như ao vũng, thường ở ngoài đồng.
-
- Mẫu thân
- Mẹ (từ Hán Việt).
-
- Trường án
- Cái bàn dài, thường là bàn làm việc trong văn phòng của quan chức.
-
- Tham biện
- Cũng gọi là tham tá, một chức quan cao cấp dưới thời Pháp thuộc, chuyên về công việc hành chính.
-
- Câu ca dao này được cho là nói về Cậu Hai Miêng (Huỳnh Công Miêng, con trai cả của Huỳnh Công Tấn) với quan tham biện người Pháp. Trái với người cha bị ghét bỏ vì là chó săn cho Pháp, Hai Miêng được người dân Nam Bộ yêu mến vì tính tình phóng khoáng, thích làm việc nghĩa, ghét cường hào ác bá.
-
- Châu sa
- Nước mắt rơi. (Trong văn thơ, châu hay giọt châu thường được dùng với nghĩa giọt nước mắt.)
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa
(Truyện Kiều)
-
- Quạt nồng ấp lạnh
- Do chữ Đông ôn hạ sảnh: Quạt khi trời mát, đắp chiếu chăn ấm khi trời rét lạnh, nói đạo làm con phụng dưỡng cha mẹ. Tích quạt nồng ấp lạnh lấy từ sách Nhị thập tứ hiếu của Quách Cự Nghiệp đời nhà Nguyên, Trung Quốc: Ðời Hậu Hán có đứa trẻ lên chín tên là Hoàng Hương. Mẹ mất sớm, Hoàng Hương ở với cha. Vào muà hạ, thời tiết về đêm nóng nực oi bức, Hoàng Hương thường xuyên quạt màn chiếu, chăn đệm cho thoáng mát trước khi cha ngủ. Muà đông, tiết trời lạnh lẽo, đêm đêm trước khi cha đi ngủ, Hoàng Hương vào giường cha nằm lăn qua trở lại rất lâu, để mền chiếu ấm hơi người cho cha được ngon giấc.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
(Truyện Kiều)
-
- Vấn tổ tầm tông
- Hỏi những người cao tuổi có quan hệ huyết thống hay tra cứu từ những tộc phả, gia phả, lời di huấn, sách vở v.v. để tìm hiểu về gốc tích của một dòng họ.
-
- Tang bồng
- Cung bằng gỗ dâu (tang) và tên bằng cỏ bồng. Theo Kinh Lễ, khi nhà vua sinh con trai, quan coi việc bắn sẽ lấy cung bằng gỗ dâu và tên bằng cỏ bồng, bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời, một phát xuống đất, ngụ ý rằng người làm trai chí ở bốn phương, tung hoành trời đất, giúp nước giúp đời. Chí làm trai vì thế gọi là chí tang bồng.