Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Thò chân xuống giếng được ba đồng tiền
Một đồng mua trống mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vua
Một đồng mua bó rau khoai
Thái ra cho nhỏ, thờ hai ông bà
Lê Tư
Hiện đang làm việc và sinh sống tại TP Vũng Tàu.
Học chuyên ngành kinh tế và đang làm việc trong lĩnh vực kinh doanh, nhưng rất thích tìm hiểu những câu chuyện về văn hóa và lịch sử của Việt Nam cũng như thế giới.
Đặc biệt yêu thích Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du.
Bài đóng góp:
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Từ ngày gặp gỡ giữa đườngTừ ngày gặp gỡ giữa đường 
 Những lời bạn nói nhớ thương vô chừng
 Tưởng là thành cơm thành cháo, tôi bỏ bụng mừng
 Hay đâu cá bể chim rừng vội bay
- 
        
        
        
    
    Giàu thì cơm cháo bổ laoDị bản- Giàu thì cơm cháo bổ lao 
 Khó thì đánh điếu thuốc lào ngậm hơi
 
- 
        
        
        
    
    Cha già con mọn chơi vơiCha già con mọn chơi vơi 
 Gần đất xa trời con chịu mồ côi
 Mồ côi tội lắm ai ơi
 Mẹ ruột, cha ghẻ chịu lời đắng cay
- 
        
        
        
    
    Sách có chữ họa phước vô doSách có chữ “Họa phước vô do” 
 Ưng không nàng nói tôi lo cho rồi
 Công cha ngãi mẹ đền bồi
 Còn lo một nỗi đứng ngồi với em
 Trăng rằm rọi xuống bên rèm
 Tưởng trăng là bậu bên thềm thướt tha
 Cây oằn là bởi tại hoa
 Qua thương nhớ bậu chẳng qua vì tình
 Thương nhau thương dạng thương hình
 Thương lời ăn nói thương tình ngãi nhân
 Phải duyên Hồ Việt cũng gần
 Trái duyên Tần Tấn dẫu gần cũng xa
- 
        
        
        
    
    Năm thức rau nấu năm nồi
- 
        
        
        
    
    Duyên mình bắt bén duyên ta
- 
        
        
        
    
    Duyên kia chưa thắm đã phaiDuyên kia chưa thắm đã phai 
 Chưa rào đã lở trách ai bạc tình
- 
        
        
        
    
    Duyên tình ai khéo khiến xui
- 
        
        
        
    
    Dưới có đất rộng, trên có trời cao
- 
        
        
        
    
    Duyên ta là ngãi tình cờDuyên ta là ngãi tình cờ 
 Bấy lâu luống những ngẩn ngơ chờ chàng
 Gặp nhau đây đá thử vàng
 Miếng trầu thết đãi dạ mang chữ tình
 Tương tư buồn bực trong mình
 Sợ thầy hãi mẹ làm thinh vui cười
 Quên sầu thiếp gượng làm tươi
 Đồ huê nguyệt sợ miệng cười thế gian
 Trốn cha trốn mẹ theo chàng
 Vì chàng nên thiếp lạc ngàn lên đây
 Đến đây thiếp ở lại đây
 Bao giờ quế mọc xanh cây mới về
 Đã đành nên thiếp nên thê
 Nên khăn nên gối không vê cũng tròn
 Non mòn nhưng nghĩa không mòn…
- 
        
        
        
    
    Đắt như tôm tươiĐắt như tôm tươi 
- 
        
        
        
    
    Cũ người mới taCũ người mới ta 
- 
        
        
        
    
    Cậy đỏ làm cànCậy đỏ làm càn 
- 
        
        
        
    
    Gái đĩ già mồmGái đĩ già mồm 
- 
        
        
        
    
    Có trăng anh phụ lòng đèn
- 
        
        
        
    
    Có em anh mới tới đâyCó em anh mới tới đây 
 Không em anh biết nơi này là đâu
- 
        
        
        
    
    Chợ rộng thời lắm lái buônChợ rộng thời lắm lái buôn 
 Sông rộng lắm nước trong nguồn chảy ra
- 
        
        
        
    
    Con mèo xáng vỡ nồi rangDị bản- Con mèo đập bể nồi rang 
 Con chó chạy lại lại mang lấy đòn
 Chó ngồi chó khóc nỉ non
 Mèo kia đập bể để đòn cho tôi
 
- 
        
        
        
    
    Cây khô lột vỏ khó trèoCây khô lột vỏ khó trèo 
 Mẹ ơi thương lấy dân nghèo mồ côi
 Mồ côi tội lắm bớ trời
 Đói cơm không ai đỡ, lỡ lời không ai bênh
Chú thích
- 
    - Cuội
- Một nhân vật trong truyện cổ tích Việt Nam. Chú Cuội (hay thằng Cuội) là một người tiều phu. Cuội có một cây đa thần, lá có khả năng cải tử hoàn sinh. Một hôm vợ Cuội tưới nước bẩn vào gốc cây đa, cây đa trốc gốc bay lên trời. Cuội bám vào rễ đa kéo lại, nhưng cây đa bay lên đến tận cung Trăng. Từ đó trên cung Trăng có hình chú Cuội. (Xem thêm: Sự tích chú Cuội cung trăng).
 
- 
    - Bổ lao
- Tẩm bổ cho những người bị bệnh lao (phương ngữ).
 
- 
    - Họa phúc vô do
- Họa phúc không có nguyên do, khi không mà đến (thành ngữ Hán Việt).
 
- 
    - Ngãi
- Nghĩa, tình nghĩa (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Qua
- Từ người lớn dùng để tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi chút tính chất khách quan, nhưng thân tình (Từ điển từ ngữ Nam Bộ - Huỳnh Công Tín).
 
- 
    - Hồ Việt
- "Hồ" chỉ các dân tộc sống về phía bắc, "Việt" chỉ các dân tộc sống về phía nam Trung Quốc ngày trước. Hồ Việt chỉ sự xa xôi cách trở.
Chữ rằng: Hồ Việt nhứt gia 
 Con đi tới đó trao qua thơ này
 (Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)
 
- 
    - Tấn Tần
- Việc hôn nhân. Thời Xuân Thu bên Trung Quốc, nước Tần và nước Tấn nhiều đời gả con cho nhau. Tấn Hiến Công gả con gái là Bá Cơ cho Tần Mục Công. Tần Mục Công lại gả con gái là Hoài Doanh cho Tấn Văn Công. Việc hôn nhân vì vậy gọi là việc Tấn Tần.
Trộm toan kén lứa chọn đôi, 
 Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa.
 (Truyện Hoa Tiên)
 
- 
    - Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
 
- 
    - Tiến sĩ
- Học vị được trao cho những người đỗ tất cả ba kỳ thi: thi Hương, thi Hội và thi Đình, được ghi danh trong khoa bảng (trừ thời nhà Nguyễn, có thêm học vị Phó bảng không phải là tiến sĩ, nhưng cũng được chấm đỗ ba kỳ thi trên). Thời nhà Trần, những người đỗ Tiến sĩ được gọi là Thái học sinh.
 
- 
    - Lọng
- Đồ dùng để che phía trên đầu, gần giống cái dù nhưng kích thước lớn hơn, hình tròn, phẳng, có cán dài để cầm, thường được sử dụng trong nghi lễ hoặc đám rước, để thể hiện địa vị xã hội. Ngày xưa, lọng được sử dụng cho vua, quan, chức sắc; ngày nay, lọng chủ yếu được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo.
Kết cấu của lọng thường bao gồm một khung bằng tre nứa, có thể giương lên, xếp lại dễ dàng. Mặt trên lọng lợp bằng giấy phết sơn ta để chống thấm nước. Lọng còn thường được trang trí nhiều màu sắc và họa tiết tùy theo địa vị của người sử dụng. 
 
- 
    - Tui
- Tôi (khẩu ngữ).
 
- 
    - Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).
 
- 
    - Thầy mẹ
- Cha mẹ (phương ngữ miền Bắc).
Con đi mười mấy năm trời, 
 Một thân, một bóng, nửa đời gió sương.
 Thầy đừng nhớ, mẹ đừng thương,
 Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi!
 Thầy mẹ ơi, thầy mẹ ơi,
 Tiếc công thầy mẹ đẻ người con hư!
 (Thư gửi thầy mẹ - Nguyễn Bính)
 
- 
    - Nguyệt hoa
- Cũng viết là hoa nguyệt (trăng hoa), chỉ chuyện trai gái yêu đương. Từ này có gốc từ nguyệt hạ hoa tiền (dưới trăng, trước hoa, những cảnh nên thơ mà trai gái hẹn hò để tình tự với nhau), nay thường dùng với nghĩa chê bai.
Cởi tình ra đếm, ra đong 
 Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa?
 (Tơ xuân - Huy Trụ)
 
- 
    - Quế
- Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý (Quế chi) trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ.
 
- 
    - Thê
- Vợ (từ Hán Việt).
 
- 
    - Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
 
- 
    - Xáng
- Đánh, đập mạnh một cái gì (xáng chén, xáng bạt tai...).
 

