Đàn ông rộng miệng thì tài
Đàn bà rộng miệng điếc tai láng giềng
Đàn ông rộng miệng thì tài
Dị bản
Đàn ông miệng rộng thì sang
Đàn bà miệng rộng cả làng điếc tai
Đàn ông miệng móm thì tài
Đàn bà miệng móm thì trai vô nhà
Đàn ông rộng miệng thì tài
Đàn bà rộng miệng điếc tai láng giềng
Đàn ông miệng rộng thì sang
Đàn bà miệng rộng cả làng điếc tai
Đàn ông miệng móm thì tài
Đàn bà miệng móm thì trai vô nhà
Miệng hùm nọc rắn
Cá khôn chẳng núp bóng dừa
Gái khôn chẳng đến lê la nhà người
Hồi xa cách vách cũng xa
Hồi gần cách huyện cách nha cũng gần
Chó liền da,
Gà liền xương
Con vua, vua dấu, con chúa, chúa yêu
Chẳng trước thì sau lý đào tương hội
Khuyên anh dằn lòng, chớ vội anh ơi!
Cu kêu ba tiếng cu kêu
Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè
Dựng nêu thì dựng đầu hè
Để sân gieo cải, vãi mè mà ăn
Cu kêu ba tiếng cu kêu
Ba mươi tháng chạp dựng nêu trước nhà
Mẹ anh lội bụi lội bờ
Sao anh áo lụa quần tơ ngày ngày
Mẹ anh bụng đói thân gầy
Sao anh vui thú mâm đầy cỗ cao
Mẹ anh như tép lao xao
Sao anh lấp lánh như sao trên trời
Mẹ anh quần quật một đời
Sao anh ngoảnh mặt anh cười cợt hoa
Liệu gió phất cờ
1. Thuyền có chiếc buồm như cánh chim loan (cũng gọi là buồm cánh dơi). Người xưa đi thuyền dùng thứ buồm này.
2. Đọc trại từ thuyền lan, dịch nghĩa của chữ “lan chu.” Ngày xưa Lỗ Bang (người nước Lỗ thời Xuân Thu) lấy gỗ mộc lan làm thuyền, thường hai đầu nhỏ, giữa to, giống chiếc lá cây lan. Trong văn chương hễ nói đến thuyền thì người ta đệm thêm chữ lan thành thuyền lan (hoặc thuyền loan) cho đẹp lời.
Chăn dân mựa nữa mất lòng dân
(Nguyễn Trãi)