Ve vẻ vè ve
Nghe vè mụ nhác
Không lo sương nác
Chỉ biết ngồi ăn
Ăn rồi lại ngủ
Ngủ rồi lại ngồi
Nước chảy bòng trôi
Mỗi ngày qua bữa
Luộc rau nhác rửa
Uống nước nhác hâm …
Tìm kiếm "đưa về dinh"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Ai về Châu Đốc đừng quên
- 
        
        
        
    
    Vè chăn vịtThân tôi coi vịt cực khổ vô hồi 
 Sáng ra ngồi trông trời mau xế như chúa trông hiền thần
 Hai cẳng lần lần như Địch Thanh thắng trận
 Quần áo chưa kịp bận như Tào Tháo bị vây
 Tay cầm cái cây như Tề Thiên cầm thiết bảng
 Vịt chạy qua bờ ngăn đón cản như Tiết Nhơn Quý rượt Cáp Tô Văn
 Quần bận còn xăn như Uất Trì tắm ngựa
 Vịt ăn ngồi dựa bóng tùng như Tần Thúc Bảo lúc bệnh đau
 Vịt chạy đuổi lao xao như La Thông tảo Bắc
 Tối về nhà đèn chưa tắt như đãi yến công nương
 Ngày ra tới đứng ngoài đường, chiều về như Phàn Lê Huê nhập trại.
- 
        
        
        
    
    Vè ăn thịt chóNghe vẻ, nghe ve 
 Nghe vè thịt chó
 Anh nào chịu khó
 Thì đi mua tương
 Cái việc tầm thường
 Ai ai cũng biết
 Muốn cho tươm tất
 Đậu phộng, đậu nành
 Củ sả, củ hành
 Mua ba tiền bún
 Một tiền rau húng …
- 
        
        
        
    
    Vè Đông KinhCơn mây gió trời Nam bảng lảng 
 Bước anh hùng nhiều chặng gian truân
 Ngẫm xem con tạo xoay vần
 Bày ra một cuộc duy tân cũng kì
 Suốt thân sĩ ba kì Nam Bắc
 Bỗng giật mình sực thức cơn mê
 Học, thương, xoay đủ mọi nghề
 Cái hồn ái quốc gọi về cũng mau
 Hồn đã tỉnh, bảo nhau cùng dậy
 Chưa học bò vội chạy đua theo
 Khi lên như gió thổi diều
 Trong hò xin thuế, ngoài reo hãm thành
 Cách hoạt động người mình còn dại
 Sức oai quyền ép lại càng mau
 Tội nguyên đổ đám nho lưu
 Bắc kì thân sĩ đứng đầu năm tên …
- 
        
        
        
    
    Vè đi phu Cửa RàoTừ ngày có mặt thằng Tây 
 Phu phen tạp dịch hàng ngày khốn thân!
 Tai vạ trửa dân
 Hắn mần đã nghiệt:
 Khắp nơi ráo riết
 Giở sổ đếm người
 Kể chi lão phụ con trai
 Người đi phu cũng tội
 Kẻ ở nhà cũng tội
 Vua quan bối rối
 Họ đập đánh lút đầu:
 – Phu phải đi cho mau
 Việc quan cần cho kịp!
 Một ngày phải kíp
 Để kiểm phu chợ Lường …
- 
        
        
        
    
    Vè xin xâuLẳng lặng mà nghe 
 Cái vè xin thuế
 Mùa màng mất tệ
 Buôn bán không ra
 Kẻ gần người xa
 Cũng nghèo cũng khổ
 Hai đồng xâu nọ
 Bảy ngày công sưu
 Cao đã quá đầu
 Kêu đà ngắn cổ
 Ở đâu ở đó
 Cũng rúc mà ra
 Kẻ kéo xuống Tòa
 Người nằm trên tỉnh
 Đông đà quá đông
 Trong tự Hà Đông
 Ngoài từ Diên Phước …
- 
        
        
        
    
    Vè bài tớiNghe vẻ nghe ve, 
 Nghe vè bài tới
 Cơm chưa lập xới
 Trầu chửa kịp têm
 Tao đánh ba đêm
 Thua ba tiền rưỡi
 Về nhà chống chửi:
 “Thằng Móc, thằng Quăn,
 Đánh sao không ăn
 Mà thua lắm bấy?”
 Tui lấy tiền cấy
 Cho đủ mươi ngày
 Bảy Thưa, Bảy Dày
 Cùng là Ngạt kéo …
- 
        
        
        
    
    Vè say rượuNgôn đa ngữ thất 
 Nói trật nhiều điều
 Tiền rượu chúng kêu
 Còn ngồi nói pháo
 Nhiếc rằng nói láo
 Uống chẳng biết lo
 Rượu muốn đong cho
 Tiền không chịu trả
 Say rồi bậy bạ
 Nói dọc nói ngang
 Nằm sá nằm đàng
 Té lên té xuống
 Rượu bao nhiêu cũng uống
 Uống quá mẹ hũ chìm
 Nói như bìm bìm
 Leo dây leo nhợ …
- 
        
        
        
    
    Kể chuyện đờn bà hưNgồi buồn tâm sự chép ra 
 Có những đờn bà dạo xóm nói dai
 Xóm trong chí những xóm ngoài
 Nách con nói điệu thài lai tối ngày
 Nói thời vo miệng nhướng mày
 Vỗ vai vỗ vế múa tay ngoẻo đầu
 Miệng thời nhóc nhách nhai trầu
 Người trên ý cũng lầu bầu quạu đeo
 Lại còn cái tật nói leo
 Cái tật nói dóc nói trèo người ta …
- 
        
        
        
    
    Vè bình dân học vụLẳng lặng mà nghe 
 Cài vè học vụ
 Đồng bào mù chữ
 Ở khắp mọi nơi
 Chiếm chín phần mười
 Toàn dân đất Việt
 Muôn bề chịu thiệt
 Chịu đui, chịu điếc
 Đời sống vùi dập
 Trong vòng nô lệ
 Hơi đâu mà kể
 Những sự đã qua
 Chính phủ Cộng hòa
 Ngày nay khác hẳn
 Đêm ngày lo lắng
 Đến việc học hành
 Mấy triệu dân lành
 Còn đương tăm tối
 Bị đời hất hủi
 Khổ nhục đáng thương
 Ngơ ngác trên đường
 Như mù không thấy
 Những điều như vậy
 Không thể bỏ qua …
- 
        
        
        
    
    Coi tàu bay tại Lầu ĐènĐời xưa chí những đời nay 
 Đời này mới thấy tàu bay nửa lừng
 Nguồn đào hải khẩu tứ tung
 Từ Hàn chí Phố rùng rùng đi coi
 Quan gia chầu chực hẳn hòi
 Sức bàn sức ghế lại đòi đến dân
 Khắp nơi cờ đóng rần rần
 Sức rơm un khói cực dân ba bốn ngày
 Ai ai cũng sức tàu bay
 Dân canh, lính gác tự ngày chí đêm
 Kẻ bán rượu, người bán nem
 Kẻ lận bạc giác người đem bạc đồng
 Đàn bà chí những đàn ông
 Bà già con nít cũng bồng ra đi
 Mười giờ tàu lại một khi
 Cò đánh, lính ví ra gì nữa đâu …
- 
        
        
        
    
    Vè Thanh HóaKhu Bốn đẩy ra 
 Khu Ba đẩy vào
 Bỏ chạy sang Lào
 Nước Lào không nhận
 Tức mình nổi giận
 Lập quốc gia riêng
 Thủ đô thiêng liêng
 Là huyện Nông Cống
 Quốc ca chính thống:
 “Dô tá dô tà”
 Nông nghiệp nước nhà:
 Trồng cây rau má
 Biển khơi lắm cá
 Mười mẻ một cân
 Nhà máy phân lân
 Một năm hai tạ
 Vang tiếng xa gần
 Nem chua toàn lá
 Còn công nghiệp hoá
 Là phá đường tàu …
- 
        
        
        
    
    Vè loài cáNghe vẻ nghe ve, nghe vè loài cá 
 No lòng phỉ dạ là con cá cơm
 Không ướp mà thơm là con cá ngát
 Liệng bay thoăn thoắt là con cá chim
 Hụt cẳng chết chìm là con cá đuối
 Lớn năm, nhiều tuổi là cá bạc đầu
 Đủ chữ xứng câu là con cá đối
 Nở mai tàn tối là con cá hoa
 Xuống nước bệu da là cá úc thịt
 Dài lưng hẹp kích là cá lòng tong
 Ốm yếu hình dong là con cá nhái
 Thiệt như lời vái là con cá linh
 Từ miệng nhái in là con cá cóc
 Răng phơi khô khốc là con cá hô
 Gặp sự ái ố là con cá hố
 Dầy mình chẳng hổ là con cá chai
 Lội ngược lên hoài là con cá lóc
 Thắp đèn coi sách là cá học Trò
 Dài miệng hẹn hò là con cá Thệ
 Đút đầu se sẻ là cá Bống Kèo
 Cái nháp, cái keo là cá Bống Mú
 Lớn năm nhiều tuổi là cá bạc đầu
 Nó ở trong hầu, là con cá lẹp
 Cái mình dẹp lép là con cá kình
 Vẩy xủi đầy mình là cá thác lác
 Đỏ mầu bỏ xác là cá bã trầu
 Chưa tới bữa hầu là con cá cháo
 Chân đi chí áo là con cá Còm
 …
- 
        
        
        
    
    Vè đi ởTóc quăn chải lược đồi mồi 
 Chải đứng chải ngồi, quăn vẫn hoàn quăn
 Nên thì tớ ở tớ ăn
 Không nên tớ giã đầu quăn tớ về.
 Tháng năm công việc ê hề
 Thằng ở ra về, chủ phải cưỡi trâu.
 Giã ơn chúng bạn chăn trâu,
 Tớ về đồng bãi hái dâu, chăn tằm.
 Tớ ở chưa được nửa năm,
 Chủ nhà mắng tớ, tớ nằm không yên …
- 
        
        
        
    
    Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
- 
        
        
        
    
    Nhà tôi có dãy vườn hoaNhà tôi có dãy vườn hoa 
 Có ba dãy nhãn, có ba dãy dừa
 Dù anh đi sớm, về trưa
 Sao anh chẳng nghỉ dãy dừa nhà tôi
- 
        
        
        
    
    Quả dưa trong héo ngoài tươi
- 
        
        
        
    
    Rau răm ngắt ngọn còn tươi
- 
        
        
        
    
    Hai tay cầm nắm lạt bẻ còHai tay cầm nắm lạt bẻ cò 
 Lòng anh thương da diết, sao em giả đò làm lơ
 Thương em phát dại phát khờ
 Đang ăn đũa rớt bao giờ không hay
 Cầm kéo quên cắt quên may
 Cầm ve quên rượu, cầm khay quên trầu
 Cầm đèn quên bấc quên dầu
 Cầm trang sách đọc quên đầu quên đuôi
 Cầm cân quên giá quên lui
 Cầm tiền mà xỉa không biết mấy mươi một tiền
 Thương em nhất dại nhì điên
Chú thích
- 
    - Sương nác
- Gánh nước (phương ngữ một số nơi ở Trung Bộ).
 
- 
    - Châu Đốc
- Địa danh nay là thị xã của tỉnh An Giang, nằm sát biên giới Việt Nam - Campuchia và cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km về phía Tây. Châu Đốc nổi tiếng vì có nhiều món ăn ngon và nhiều di tích lịch sử. Dưới thời Pháp thuộc, Châu Đốc là điểm khởi đầu thủy trình đến Nam Vang.
Theo học giả Vương Hồng Sển, địa danh Châu Đốc có nguồn gốc từ tiếng Khmer moat-chrut, nghĩa là "miệng heo." 
 
- 
    - Thất Sơn
- Còn có tên là Bảy Núi, chỉ hệ thống 37 ngọn núi mọc giữa đồng bằng Tây Nam Bộ, nằm trong địa phận hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn, tỉnh An Giang. Bảy ngọn núi tiêu biểu được dùng để gọi tên cả dãy Thất Sơn bao gồm: Núi Cấm, Núi Dài Năm Giếng, Núi Cô Tô, Núi Phụng Hoàng, Núi Dài, Núi Tượng, Núi Két, Núi Nước. Hiện nay chưa rõ vì sao tên Bảy Núi lại được dùng.
 
- 
    - Đua bò
- Một lễ hội của người Khmer tại Châu Đốc, An Giang, được tổ chức vào dịp tháng 10 âm lịch hằng năm. Sân đua bò là một thửa ruộng ngập nước, khán giả ngồi quanh xem giống như sân bóng đá thu nhỏ. Mỗi nài điều khiển một cặp bò, mỗi lần đua gồm hai cặp, cặp bò thắng sẽ tiếp tục được vào vòng sau.
 
- 
    - Vô hồi
- Không ngừng, không hết, một cách nói của người Nam Bộ (cực vô hồi, mừng rỡ vô hồi...).
 
- 
    - Hiền thần
- Người bầy tôi giỏi (trong xã hội phong kiến).
 
- 
    - Địch Thanh
- Một danh tướng của nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc.
 
- 
    - Tào Tháo
- Một nhà quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, được người Việt Nam biết đến chủ yếu qua tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, theo đó ông được miêu tả là một người gian hùng và đa nghi. Trong lịch sử, Tào Tháo là người đặt cơ sở cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc, và có công rất lớn trong việc dẹp loạn Khăn Vàng (Huỳnh Cân) và nạn Đổng Trác.
 
- 
    - Tôn Ngộ Không
- Một trong số các nhân vật chính trong tiểu thuyết Tây Du Ký của nhà văn Trung Quốc Ngô Thừa Ân, rất quen thuộc trong văn hóa Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Tôn Ngộ Không vốn là một con khỉ nứt từ đá ra, học được 72 phép biến hóa, có phép Cân đẩu vân (bay lộn trên mây, nhún mình một cái bay được một vạn tám ngàn dặm), sử dụng vũ khí là gậy sắt (thiết bảng), tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh. Sau Tôn Ngộ Không theo phò Đường Tam Tạng sang Tây Trúc thỉnh kinh, dọc đường có nhiều công trạng trong việc đánh yêu ma quỷ quái, bảo vệ Đường Tăng, đồng thời cũng gặp phải nhiều kiếp nạn.
 
- 
    - Tiết Nhơn Quý
- Một danh tướng thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông được biết đến nhiều bởi hình tượng nhân vật tiêu biểu trong văn hóa kinh kịch Trung Quốc. Hình ảnh Tiết Nhơn Quý được thần thoại hóa thành "tướng tinh cọp trắng" và có nhiều câu chuyện dân gian xung quanh nhân vật này.
Ở nước ta, cuốn tiểu thuyết dã sử của Trung Quốc Tiết Nhơn Quý chinh Đông đã được chuyển thể thành vở cải lương cùng tên được nhân dân khá yêu thích. Xem trích đoạn vở cải lương này tại đây. 
 
- 
    - Cáp Tô Văn
- Tướng tài của nước Cao Ly (bán đảo Triều Tiên ngày nay). Theo chuyện ghi trong bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc Tiết Nhơn Quý chinh Đông sau được dựng thành tuồng và cải lương ở nước ta, trong chuyến xuất đại binh chinh phạt của vua Trung Quốc đời Đường là Đường Thái Tông, Cáp Tô Văn đánh bại tất thảy các tướng nhà Đường nhưng cuối cùng thua dưới tay Tiết Nhơn Quý, chặt đầu mình tự vẫn.
 
- 
    - Uất Trì Cung
- Một danh tướng thời Đường bên Trung Hoa. Ông họ Uất Trì tên Cung, tên chữ là Kính Đức, nổi tiếng có sức mạnh phi thường, phò tá vua Đường Thái Tông rất trung thành. Hình tượng Uất Trì Cung trong quan niệm dân gian Trung Hoa là một viên tướng mặt đen như than, cùng với Tần Quỳnh (mặt vàng) là hai vị thần giữ cửa (môn thần) trong tín ngưỡng truyền thống.
 
- 
    - Tần Thúc Bảo
- Danh tướng nhà Đường dưới thời Đường Thái Tông, là một trong những khai quốc công thần của nhà Đường, được dân gian tôn làm Môn Thần (thần giữ cửa) và được tiểu thuyết hoá trong nhiều tác phẩm văn học và sân khấu-điện ảnh.
 
- 
    - La Thông
- Một danh tướng đời Đường trong tiểu thuyết cổ điển của Trung Quốc La Thông tảo Bắc kể việc La Thông kéo quân lên cứu Đường Thái Tông bị vây khốn ở Bắc Phiên. Tiểu thuyết này đã được chuyển thể thành một vở cải lương cùng tên (còn có tên khác là "Công chúa Đồ Lư"), được nhân dân ta, đặc biệt là người miền trong, ưa chuộng. Nhân vật La Thông cũng được nhắc đến trong các vở tuồng cổ Tiết Nhơn Quý chinh Đông và Tiết Đinh San chinh Tây.
 
- 
    - Phàn Lê Huê
- Một nữ tướng thời Đường, vợ của Tiết Đinh San, cũng là một danh tướng trong dã sử Trung Quốc. Phàn Lê Huê là nhân vật chính trong nhiều vở tuồng và cải lương biên soạn dựa trên tiểu thuyết Trung Quốc ở nước ta. 
Xem trích đoạn cải lương Phàn Lê Huê phá Hồng thuỷ trận và Tiết Định San cầu Phàn Lê Huê tại đây. 
 
- 
    - Lạc
- Một loại cây lương thực ngắn ngày thuộc họ đậu, rất phổ biến trong đời sống của người dân Việt Nam. Lạc cho củ (thật ra là quả) mọc ngầm dưới đất, có vỏ cứng. Hạt lạc có thể dùng để ăn hoặc lấy dầu, vỏ lạc có thể ép làm bánh cho gia súc, thân và lá làm củi đốt. Ở miền Trung và miền Nam, lạc được gọi là đậu phộng, một số nơi phát âm thành đậu phụng.
 
- 
    - Đậu nành
- Một giống đậu rất phổ biến ở nước ta và trên cả thế giới. Hạt đậu nành được sử dụng rất đa dạng, bao gồm dùng trực tiếp (rang, luộc, nấu canh, nấu chè...) hoặc chế biến thành đậu phụ, ép thành dầu đậu nành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa...
 
- 
    - Sả
- Một loại cỏ cao, sống lâu năm, có mùi thơm như chanh. Tinh dầu sả được dùng để ướp tóc. Thân cây sả có thể làm gia vị.
 
- 
    - Rau húng
- Tên chung cho một số loài rau thuộc họ Bac Hà. Rau húng có nhiều loài, tên gọi mỗi loài thường chỉ mùi đặc trưng hay cách sinh trưởng của cây như húng quế (miền Nam gọi là rau quế) có mùi quế, húng chanh (miền Nam gọi là rau tần dày lá) có mùi tương tự chanh, húng lủi vì cây rau bò sát mặt đất... Ở miền Trung và miền Nam, một số loài húng được gọi tên là é. Rau húng là gia vị đặc sắc và không thể thiếu trong các món ăn dân gian như nộm, dồi, lòng lợn, tiết canh, thịt vịt, phở, bún... Tinh dầu trong lá và ngọn có hoa của một số loại húng được có tác dụng chữa bệnh (ví dụ húng chanh trị ho) hoặc dùng làm nguyên liệu sản xuất hương phẩm. Ở miền Nam, người ta lấy hạt húng quế (hạt é) làm nước uống giải nhiệt.
Làng Láng thuộc Thăng Long xưa là nơi nổi tiếng với nghề trồng rau húng lủi, gọi là húng Láng. 
 
- 
    - Phong trào Duy tân
- Cuộc vận động cải cách công khai ở miền Trung Việt Nam, kéo dài từ 1906 đến 1908 do Phan Chu Trinh phát động.
Phong trào Duy tân (duy tân: theo cái mới) chủ trương bất bạo động, mở mang dân trí, đổi mới giáo dục, văn hóa và kinh tế để tạo nên thế tự lực tự cường cho người Việt - lúc bấy giờ ở dưới nền thống trị thuộc địa của Pháp. Phong trào mang khẩu hiệu: "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh". Cùng thời và cùng theo tư tưởng cải cách còn có Duy tân hội (1904-1912) của Phan Bội Châu, do hoạt động bí mật nên được gọi là Ám xã (Hội trong bóng tối). Phong trào Duy tân hoạt động công khai, được gọi là Minh xã (Hội ngoài ánh sáng). Một trong những đỉnh cao của phong trào Duy tân là Đông Kinh nghĩa thục (3/1907 - 11/1907). 
 
- 
    - Thân sĩ
- Thân nghĩa là đai áo chầu. Thân sĩ là từ chỉ các quan đã về hưu.
 
- 
    - Ái quốc
- Yêu nước (từ Hán Việt).
 
- 
    - Phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ
- Còn gọi là Trung kỳ dân biến, khởi phát bằng cuộc đấu tranh chống sưu thuế của nhân dân Quảng Nam vào đầu tháng 3 năm 1908, kéo dài hơn một tháng và lan ra các tỉnh lân cận như Quảng Ngãi, Bình Định, Thừa Thiên, Phú Yên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Do nhiều người lãnh đạo chủ chốt trong phong trào này cũng tham gia phong trào Duy Tân nên chính quyền thực dân thẳng tay đàn áp cả hai. Đến cuối tháng 5 năm 1908, cả hai phong trào đều kết thúc.
Xem bài Vè xin xâu liên quan đến phong trào này. 
 
- 
    
- Chỉ vụ Hà thành đầu độc năm 1908.
 
- 
    - Tội nguyên
- Người đứng đầu chịu tội.
 
- 
    
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về , hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Dân phu
- Người dân lao động phải làm những công việc nặng nhọc trong chế độ cũ (phu xe, phu mỏ, phu đồn điền).
 
- 
    - Tạp dịch
- Những việc lặt vặt (từ Hán Việt).
 
- 
    - Trửa
- Giữa (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Mần
- Làm (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Như mần ăn, mần việc, đi mần...
 
- 
    - Nghiệt
- Ác nghiệt, nghiệt ngã.
 
- 
    - Kíp
- Gấp, vội. Từ này có nguồn gốc từ chữ Hán Việt cấp.
 
- 
    - Chợ Lường
- Tên dân gian của chợ Đô Lương, một ngôi chợ nay thuộc địa phận huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Thời Pháp thuộc, chợ là địa điểm tập trung dân phu để đi làm đường. Đến bây giờ, chợ Lường vẫn được coi như là biểu tượng của cảnh bán buôn sầm uất, tấp nập trong vùng.
 
- 
    - Sưu thuế
- Sưu (hay xâu) là số ngày người dân phải tham gia lao động công ích, nhưng cho phép nộp bằng tiền để thuê người làm thay; thuế là số tiền (hoặc hiện vật) người dân phải nộp cho chính quyền.
 
- 
    - Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).
 
- 
    - Hà Đông
- Vùng đất nay là thành phố Tam Kỳ, thủ phủ của tỉnh Quảng Nam. Huyện Hà Đông thuộc phủ Thăng Hoa của đạo Thừa Tuyên – Quảng Nam, được hình thành từ năm 1471 dưới thời vua Lê Thánh Tông. Đến năm 1906, đời vua Thành Thái, huyện được nâng lên thành phủ Hà Đông, và sau đó đổi thành phủ Tam Kỳ.
 
- 
    - Diên Phước
- Tên một huyện ở phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ngày trước (nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).
 
- 
    - Têm trầu
- Quệt vôi vào lá trầu không, cuộn lại rồi cài chặt lại bằng cuống lá để thành một miếng trầu vừa miệng ăn.
 
- 
    - Tiền
- Đơn vị tiền tệ cổ của nước ta, bằng 60 đồng tiền kẽm.
 
- 
    - Ngôn đa ngữ thất
- Trích từ sách Cảnh Hạnh Lục (Minh Tâm Bảo Giám): Ngôn đa ngữ thất giai nhân tửu, nghĩa đoạn thân sơ chỉ vị tiền (nói nhiều, nói bậy đều do rượu, dứt tình nghĩa, chia lìa thân thuộc cũng vì tiền).
 
- 
    - Nói pháo
- Nói khoác.
 
- 
    - Đàng
- Đường, hướng (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Bìm bìm
- Một loại cây leo, hoa hình phễu, trắng hoặc tím xanh, thường mọc hoang hoặc được trồng làm cảnh ở các bờ rào.
 
- 
    - Chí
- Đến, kéo dài cho đến (từ Hán Việt).
 
- 
    - Thài lai
- Còn nói thày lay, xen vào việc của người khác không liên quan đến mình (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Bình dân học vụ
- Tên một phong trào do chủ tịch Hồ Chí Minh phát động sau cách mạng tháng Tám để xóa nạn mù chữ (diệt giặc dốt), có sử dụng các câu văn vần mô tả bảng chữ cái cho dễ thuộc: I, tờ (t), có móc cả hai. I ngắn có chấm, tờ dài có ngang
Từ "i tờ" về sau chỉ trình độ học vấn vỡ lòng. 
 
- 
    - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Tên một nhà nước được Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập năm 1945, tồn tại cho đến sau 1976 thì sáp nhập với nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Xem thêm.
 
- 
    - Nửa lừng
- Nửa lưng chừng (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Đà Nẵng
- Tên thành phố thuộc Nam Trung Bộ, trước đây thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Nguồn gốc từ "Đà Nẵng" là biến dạng của từ Chăm cổ Daknan, nghĩa là "vùng nước rộng lớn" hay "sông lớn", "cửa sông cái" vì thành phố nằm bên bờ sông Hàn. Dưới thời nhà Nguyễn, Đà Nẵng có tên là Cửa Hàn, là thương cảng lớn nhất miền Trung. Cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu chính tại thành phố này.
Hiện nay Đà Nẵng là một thành phố hiện đại, trong lành, có tiềm năng du lịch rất lớn, và được xem là thành phố đáng sống nhất Việt Nam. 
 
- 
    - Hội An
- Một địa danh thuộc tỉnh Quảng Nam, nay là thành phố trực thuộc tỉnh này. Trong lịch sử, nhất là giai đoạn từ thế kỉ 15 đến thế kỉ 19, Hội An từng là một hải cảng rất phồn thỉnh. Hiện nay địa danh này nổi tiếng về du lịch với phố cổ cùng các ngành truyền thống: mộc, gốm, trồng rau, đúc đồng... Hội An còn được gọi là phố Hội hoặc Hoài Phố, hay chỉ ngắn gọi là Phố theo cách gọi của người địa phương.
 
- 
    - Sức
- Hành động quan truyền lệnh cho dân bằng văn bản.
Việc này tuy là việc thể dục, nhưng các thầy không được coi thường, nếu không tuân lệnh sẽ bị cữu. 
 Nay sức.
 Lê Thăng
 (Tinh thần thể dục - Nguyễn Công Hoan)
 
- 
    - Rần rần
- Đông đảo, ồn ào.
 
- 
    - Tự
- Từ.
 
- 
    - Nem
- Một món ăn làm từ thịt lợn, lợi dụng men của các loại lá (lá ổi, lá sung...) và thính gạo để ủ chín, có vị chua ngậy. Nem được chia làm nhiều loại như nem chua, nem thính... Nem phổ biến ở nhiều vùng, mỗi vùng đều có hương vị riêng: Vĩnh Yên, làng Ước Lễ (Hà Đông), làng Vẽ (Hà Nội), Quảng Yên (Quảng Ninh), Thanh Hóa, Đông Ba (Huế), Ninh Hòa (Khánh Hòa), Thủ Đức (thành phố Hồ Chí Minh), Lai Vung (Đồng Tháp)...
 
- 
    - Lận
- Nhét vào trong người (phương ngữ).
 
- 
    - Bạc giác
- Hào, bạc cắc, tiền lẻ nói chung (từ cũ).
 
- 
    - Cẩm
- Hay cò, chức danh cảnh sát trưởng thời nước ta bị Pháp đô hộ, nói gọn từ âm tiếng Pháp commissaire de police.
 
- 
    - Ví
- Đuổi (theo). Từ này ở Trung và Nam Bộ phát âm thành dí.
 
- 
    - Khu 4
- Một đơn vị hành chính - quân sự cũ ở vùng Bắc Trung Bộ, do chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt ra và sử dụng từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1948, gồm có các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
 
- 
    - Khu 3
- Một đơn vị hành chính - quân sự cũ ở vùng đồng bằng sông Hồng, do chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt ra và sử dụng từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1948, gồm có các tỉnh thành: Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, Hải Ninh, Hải Phòng.
 
- 
    - Nông Cống
- Tên một huyện nằm ở phía Nam tỉnh Thanh Hóa, trước đây còn có tên là Tư Nông.
 
- 
    - Hò sông Mã
- Một thể loại hò đặc sắc của Thanh Hóa, được những người chèo đò (gọi là trai đò) hát trên sông Mã. Hò sông Mã được gọi tên theo từng chặng khác nhau từ lúc đò rời bến cho đến khi cập bến: Hò rời bến, sắng đò ngược, hò xuôi dòng, hò đường trường, hò ru ngủ, hò mắc cạn, hò niệm Phật, hò cập bến... 
Xem phóng sự Điệu hò trên một dòng sông. 
 
- 
    - Rau má
- Một loại cây thân thảo ngắn ngày, thường được trồng để ăn tươi hoăc sắc lấy nước uống. Nước rau má có tác dụng giải độc, hạ huyết áp, làm mát cơ thể. Lá rau má hình thận, nhỏ bằng đồng xu.
 
- 
    - Phỉ dạ
- Thỏa lòng, thỏa mãn.
 
- 
    - Cá cơm
- Cũng gọi là cá duội (ruội) hay cá chi, một loại cá biển phổ biến ở Việt Nam, có thể chế biến thành các món ăn, phơi làm khô cá, hoặc làm nước mắm.
 
- 
    - Cá ngát
- Một loại cá sống ở biển và những vùng nước lợ, có da trơn, thân hình giống như con cá trê, đầu to có râu và hai chiếc ngạnh sắc nhọn hai bên, thân dài đuôi dẹt. Cá ngát khi đã trưởng thành thường to bằng cán dao đến cổ tay người lớn. Ngư dân đánh bắt cá ngát bằng cách giăng lưới hoặc câu nhưng hiệu quả nhất là giăng lưới ở những luồng nước đục, chảy nhẹ vì chỗ này thường có nhiều cá. Cá ngát có thể chế biến thành nhiều loại thức ăn, nhưng nổi tiếng nhất có lẽ vẫn là món canh chua cá ngát.
 
- 
    - Cá chim
- Một loài cá biển, mình dẹp và cao, mồm nhọn, vẩy nhỏ, vây kín.
 
- 
    - Cá đuối
- Một loài cá biển, cùng họ với cá nhám, thân dẹp hình đĩa, vây ngực rộng, xòe hai bên, đuôi dài.
 
- 
    - Cá bạc đầu
- Loài cá nước ngọt, thân nhỏ, có đầu dẹp bằng, đỉnh đầu có một đốm trắng bạc, hiện diện nhiều ở vùng hạ lưu sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ Đông đổ ra cửa Vàm Láng vùng Cần Đước, tỉnh Long An.
 
- 
    - Cá đối
- Một loại cá có thân tròn dài, dẹt, vảy tròn, màu bạc. Cá đối được chế biến nhiều món ăn ngon, hấp dẫn như cá đối nướng, cá đối chiên, cá đối kho dưa cải, cháo cá...
 
- 
    - Cá úc
- Một loài cá da trơn, chủ yếu sống ngoài biển, một số sống trong môi trường nước lợ hay ngọt, thường thấy ở khu vực ôn đới ấm và nhiệt đới. Cá úc được chế biến thành nhiều món đặc sản Nam Bộ.
 
- 
    - Kích
- Chỗ tiếp nối giữa thân trước và thân sau áo, ở dưới nách.
 
- 
    - Lòng tong
- Còn gọi là lòng đong, tên gọi chung của một số loại cá nước ngọt hoặc nước lợ, thân nhỏ, thường được người dân đem kho khô hoặc kho nước với tiêu bột ăn cơm nóng.
 
- 
    - Hình dong
- Hình dung, hình dáng bên ngoài (từ Hán Việt).
 
- 
    - Cá lìm kìm
- Còn gọi là cá kìm hay cá nhái, tên chung của những loài cá có thân hình thuôn dài với đặc trưng là mỏ kéo dài ra như cái kìm (xem ảnh). Cá lìm kìm có nhiều loài khác nhau, một số loài sống ở nước ngọt (sông, hồ), một số loài khác lại sống ở nước lợ hay nước mặn. Cá lìm kìm nước ngọt trong hình dưới đây có thân màu trắng trong, dài từ 5 đến 10 milimet. Những loài khác sống ở nước mặn (biển) hay nước lợ có kích thước lớn hơn. Cá lìm kìm nước ngọt là loài cá rất dễ gặp ở đồng bằng sông Cửu Long, hầu như ở sông, hồ, mương kênh hay ao nào ta cũng có thể dễ dàng thấy chúng nếu để ý quan sát kỹ.
 
- 
    - Cá linh
- Một loại cá cùng họ với cá chép, thân nhỏ và dẹp, thường sống ở cửa sông, xuất hiện nhiều ở các sông rạch miền Tây Nam Bộ vào mùa nước nổi. Người dân miền Tây thường đánh bắt cá linh để làm các món ăn gia đình (kho tiêu, lẩu, gỏi...) và làm mắm.
 
- 
    - Cá cóc
- Một loại động vật lưỡng cư, có bề ngoài nhìn giống thằn lằn (nên còn gọi là thằn lằn nước), đuôi dẹp và da thiếu vảy. Trên da cá cóc có nhiều mụn xù xì và tiết chất nhầy, nếu chạm phải có thể gây đau nhức.
 
- 
    - Cá hô
- Một loài cá nước ngọt thuộc họ cá chép, có kích thước rất lớn (có những con nặng hơn 100kg), được đánh bắt để làm mắm và nhiều món ăn ngon. Cá hô trước đây có rất nhiều ở miền Tây Nam Bộ, nhưng hiện nay đã gần tuyệt chủng và được đưa vào sách đỏ.
 
- 
    - Cá chai
- Một loại cá có nhiều ở các vùng biển miền Trung, dài chừng từ 15 đến 20cm, thịt dày, thơm, rất ít xương nhỏ, thường được đánh bắt để làm thức ăn trong gia đình hoặc đãi khách. Cá chai chế biến được nhiều món, nhưng ngon nhất vẫn là nướng hoặc chiên.
 
- 
    - Cá lóc
- Còn có các tên khác là cá tràu, cá quả tùy theo vùng miền. Đây là một loại cá nước ngọt, sống ở đồng và thường được nuôi ở ao để lấy giống hoặc lấy thịt. Thịt cá lóc được chế biến thành nhiều món ăn ngon. Ở miền Trung, cá tràu và được coi là biểu tượng của sự lanh lợi, khỏe mạnh, vì thế một số nơi có tục ăn cá tràu đầu năm.
 
- 
    - Cá lẹp
- Một loài cá nhỏ, màu trắng bạc, thân mềm nhũn, sống ở biển hay vùng nước lợ. Cá lẹp nướng kẹp với lộc mưng chấm ruốc tôm (ruốc hôi) là món ăn quen thuộc của người dân Nghệ Tĩnh. Cá lẹp còn được làm mắm (một loại mắm xổi, tức mắm chỉ ép với muối vài ba ngày là ăn được).
 
- 
    - Cá kình
- Cá voi. Trong thơ văn cổ, hình ảnh cá kình thường tượng trưng cho những người mạnh mẽ hoặc hung tợn.
 
- 
    - Cá thác lác
- Cũng gọi là cá thát lát hoặc cá phác lác, một loại cá nước ngọt rất thường gặp ở Trung và Nam Bộ, đặc biệt là Tây Nam Bộ. Cá thường được đánh bắt để làm chả cá thác lác - một đặc sản nổi tiếng - và các món ngon khác như lẩu cá, muối sả ớt, canh...
 
- 
    - Cá bã trầu
- Một loại cá biển thân dẹp, vẩy có màu hồng nhạt, mắt to. Cá cho thịt mềm, rất ngọt, được chế biến nhiều món ngon như nướng, chiên, nấu canh chua... Tùy vùng miền mà loại cá này có những cái tên khác nhau như cá thóc, cá mắt kiếng, cá trao tráo (hai tên sau có lẽ là dựa vào đặc điểm của mắt cá).
 
- 
    - Cá khoai
- Còn gọi là cá cháo, cá chuối, một loài cá sống chủ yếu ở biển, đôi khi ở nước lợ. Cá có thân dài, hình ống hơi dẹp, dài trung bình khoảng 10-27 cm, thịt mềm, có màu trắng đục, xương rất ít, chỉ có một đường sụn chạy dọc theo sống lưng, đầu to, mắt nhỏ, miệng rộng có nhiều răng cứng, nhọn và rất sắc. Cá khoai được chế biến thành nhiều món ăn dân dã rất hấp dẫn như cháo cá khoai, canh cá khoai nấu ngót, nấu riêu, nhúng mẻ, làm khô nướng hay làm lẩu, v.v.
 
- 
    - Đồi mồi
- Một loài rùa biển, mai có vân đẹp nên thường bị đánh bắt để làm đồ mĩ nghệ (lược, vòng tay, vòng đeo cổ...). Những đốm nám trên da hoặc trái cây cũng gọi là vết đồi mồi.
 
- 
    - Giã
- Như từ giã. Chào để rời đi xa.
 
- 
    - Giã ơn
- Cảm tạ ơn.
Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn 
 (Nhị Độ Mai)
 
- 
    - Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.
 
- 
    - Bến Tre
- Một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, cũng được gọi là đất Trúc (thị xã Bến Tre trước đây còn có tên là Trúc Giang). Đây là vùng đất gắn liền với cuộc đời của nhiều danh nhân: Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trường Toản, Trương Vĩnh Ký... Bến Tre cũng rất nổi tiếng vì trồng rất nhiều dừa, nên còn được gọi là Xứ Dừa.
 
- 
    
- 
    - Lầu tây
- Thường được dùng như một hình ảnh ước lệ trong văn thơ xưa, để chỉ nơi có tình cảm thương nhớ, tương tư trong tình yêu đôi lứa.
 
- 
    - Buồng hương
- Do chữ Hán hương khuê (phòng thơm), chỉ phòng riêng của người phụ nữ.
 
- 
    - Rau răm
- Một loại cây nhỏ, lá có vị cay nồng, được trồng làm gia vị hoặc để ăn kèm.
 
- 
    - Lạt
- Tre hoặc nứa chẻ mỏng, dẻo, dùng làm dây buộc.
 
- 
    - Bẻ cò
- Bẻ gập lại thành từng khúc để đếm (mỗi khúc là một lần).
 
- 
    - Ve
- Cái ly (phiên âm từ danh từ tiếng Pháp "le verre"), còn được hiểu là chai nhỏ, lọ nhỏ.
 
- 
    - Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. 
 
- 
    - Bấc
- Sợi vải tết lại, dùng để thắp đèn dầu hoặc nến. Ở một số vùng quê, bấc còn được tết từ sợi bông gòn. Hành động đẩy bấc cao lên để đèn cháy sáng hơn gọi là khêu bấc.
 
- 
    - Tiền
- Năm 1439, vua Lê Thánh Tông quy định: 1 quan = 10 tiền = 600 đồng, gọi là tiền tốt hoặc tiền quý (quy định này ổn định cho đến năm 1945). Khoảng thế kỉ 18, trong dân gian xuất hiện cách tính tiền gián, mỗi quan tiền gián chỉ gồm 360 đồng.
 

















































