Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi:
“Phụ mẫu ở nhà mạnh giỏi hay không?”
Tìm kiếm "mùng bốn"
-
-
Tàu vào dân chúng mừng thầm
-
Giàu cha giàu mẹ thì mừng
Giàu cha giàu mẹ thì mừng
Giàu cô giàu bác thì đừng có trôngDị bản
Giàu cha giàu mẹ thì mừng
Giàu anh giàu chị thì đừng cậy trôngGiàu cha giàu mẹ thì nhờ
Giàu anh giàu chị đừng chờ uổng côngGiàu cha giàu mẹ thì ham,
Giàu cô, giàu bác, ai làm nấy ăn
-
Chàng đi để nhện buông mùng
Chàng đi để nhện buông mùng
Đêm năm canh thiếp chịu lạnh lùng cả năm
Đêm nay bỏ thoải tay ra
Giường không chiếu vắng xót xa trong lòng
Nửa đêm súc miệng ấm đồng
Lạnh lùng đã thấu đến lòng chàng chưa?
Đêm qua tắt gió liền mưa
Chàng cầm cành bạc thiếp đưa lá vàng
Một ngày năm bảy tin sang
Thiếp những mong chàng chàng những mong ai
Má hồng còn có khi phai
Răng đen khi nhạt tóc dài khi thưa
Trông ra phố trách ông trời
Chỗ ăn thì có chỗ ngồi thì không
Chém cha cái số long đong
Càng vương với chữ tình chung càng rầy -
Giàu ba mươi tuổi chớ mừng
Giàu ba mươi tuổi chớ mừng
Khó ba mươi tuổi em đừng vội lo -
Má ơi chú tửng vô mùng
-
Ai cho chín lạng không mừng
Ai cho chín lạng không mừng
Chỉ mừng một cỗ chồi xuân non cành -
Đó xa nhơn ngãi đó mừng
-
Anh đi đâu bỏ nhện giăng mùng
Anh đi đâu bỏ nhện giăng mùng
Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu -
Ngày rằm, mùng một ăn chay
Ngày rằm, mùng một ăn chay
Ghét con mỏ nhọn tưởng hoài chả nem -
Chim sa, cá nhảy chớ mừng
-
Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng con cháu thì lo
-
Sợ đó không ưng, chứ đó ưng thì đây mừng biết mấy
Sợ đó không ưng, chứ đó ưng thì đây mừng biết mấy
Hễ anh thương rồi cha mẹ thấy cũng thương -
Một vui, hai sướng, ba mừng
Một vui, hai sướng, ba mừng
Còn sầu một nỗi chưa hun được nàng -
Lâu ngày thầy địa tới thăm
-
Chân chàng tới cảnh đình trung
-
Được vàng được bạc trên tay
-
Trăng kia chớ ỷ mình tròn
-
Đôi ta như bộ chén chung
-
Bấy lâu vắng bạn khát khao
Bấy lâu vắng bạn khát khao
Giờ được gặp bạn mừng sao hỡi mừng
Chú thích
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Cảng Hải Phòng
- Được xây dựng từ năm 1874, một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, lớn nhất miền Bắc và lớn thứ hai cả nước (sau cảng Sài Gòn), là cửa ngõ quốc tế nằm tại hai quận Hồng Bàng và Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Khu cảng chính trên sông Cấm còn gọi là bến Hoàng Diệu, trước gọi là bến Sáu Kho.
-
- Răng đen
- Người xưa có phong tục nhuộm răng đen. Từ điển Văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, 2002, trang 511, nói về nhuộm răng như sau:
"Phong tục người Việt cổ coi răng càng đen càng đẹp. Trước khi nhuộm đen phải nhuộm đỏ. Thuốc nhuộm răng đỏ là cánh kiến đỏ trộn với rượu rồi đun quánh như bột nếp. Quét bột này lên mảnh lá chuối hột ấp vào răng trước khi đi ngủ. Làm nhiều lần cho đến khi hàm răng bóng ánh nổi màu cánh gián. Thuốc nhuộm đen: phèn đen, vỏ lựu khô, quế chi, hoa hồi, đinh hương nghiền nhỏ, hòa giấm hoặc rượu, đun cho quánh như hồ dán. Quét lên lá chuối đắp lên răng như nhuộm đỏ. Từ 5 đến 7 ngày thuốc mới bám vào răng, nổi màu đen thẫm rồi đen bóng. Súc miệng bằng nước cốt dừa. Kiêng ăn thịt mỡ, cua cá, vật cứng, nóng. Có khi chỉ nuốt cơm hoặc húp cháo. Kể cả nhuộm đỏ và đen, thời gian kéo dài đến nửa tháng."
-
- Tửng
- Người con trai, thằng nhỏ (từ tiếng Hán đinh, đọc giọng Quảng Đông).
-
- Hầu bao
- Túi tiền (từ tiếng Hán yêu bao).
-
- Nhơn ngãi
- Nhân nghĩa (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Xà
- Con rắn (từ Hán Việt).
-
- Ông vải
- Ông bà (từ Nôm cổ).
-
- Thầy địa lí
- Người làm nghề xem thế đất để tìm chỗ đặt mồ mả, dựng nhà cửa cho được may mắn, theo thuật phong thủy.
-
- Đình trung
- Giữa (sân) đình.
-
- Đạo hằng
- Đạo thường. Ý nói ăn ở bình thường, ngay thẳng, có đạo đức. Cũng nói là tính (tánh) hằng.
-
- Ỷ
- Dựa, cậy.
-
- Chung
- Chén nhỏ dùng khi uống rượu hoặc trà. Cũng nói chung thỉ (người Nam Bộ phát âm chữ thủy thành thỉ).
-
- Lậu
- Để lộ (phương ngữ Nam Bộ, nguyên là âm Hán Việt của chữ lậu 漏).
-
- Long ẩn thủy ba
- Rồng nấp nơi sóng nước (chữ Hán).