Nhà anh ở cạnh bờ ao
Tôi ghé lưng vào cho vợ anh ghen
Vợ anh thời sáng như đèn
Tôi tối như mực tôi len làm gì
Tìm kiếm "bờ nước"
-
-
Đói đầu gối phải bò
Đói đầu gối phải bò
-
Đừng chê khế rụng bờ ao
-
Chiều chiều vịt lội bờ làng
Dị bản
-
Làm nhà ở dựa bờ sông
Làm nhà ở dựa bờ sông
Sáng trông cá lội chiều trông chim gùDị bản
Làm nhà ở cạnh bờ sông,
Đêm nghe cá quẫy, ngày trông chim gù.
-
Đường đi xúm xịt bờ sình
-
Con biết lẫy thì bố biết bò
-
Tiếc công đan giỏ bỏ cà
-
Nghỉ việc không gạo bỏ nồi
Nghỉ việc không gạo bỏ nồi
Ốm no bò dậy, không người chăm nom
Sáng ngày vác cuốc trèo non
Tối về mới biết mình còn sống đây
Lầm than cực khổ thế này
Xúc than cuốc đất, tối ngày lọ lem -
Bước lên đất sụp bờ sình
Bước lên đất sụp bờ sình
Lời giao ngôn tôi hứa lỡ, chung tình tôi phải ra đi. -
Con cua kình càng bò ngang cây mít
Con cua kình càng bò ngang cây mít
Thấy chị hai mầy lớn đít tao thương -
Mảng coi cút lủi bờ mì
-
Trời gầm chú ị bò ra
-
Đưa em về tới bờ bưng
-
Đường đi chưn trợt bờ sình
-
Trâu kia chết để bộ da
Trâu kia chết để bộ da
Người chết để tiếng xấu xa muôn đời -
Một mình đứng giữa bờ mương
Một mình đứng giữa bờ mương
Bên tình bên nghĩa, biết thương bên nào? -
Con cò lặn lội bờ sông
Con cò lặn lội bờ sông
Ngày xuân mòn mỏi má hồng phôi pha
Em về giục mẹ cùng cha
Chợ trưa, dưa héo nghĩ mà buồn tênh -
Ai làm cho vịt bỏ đồng,
-
Cau này em mới bổ ra
Cau này em mới bổ ra
Trầu không mới hái thật là trầu cay
Mời chàng xơi miếng trầu này
Giã ơn bác cả dang tay ra mời
Giã ơn tiếng nói tiếng cười
Giã ơn bác cả vừa ngồi vừa têm
Tôi xin chúng bạn đôi bên
Đừng cười chớ nói cứ yên xơi trầu
Miếng trầu tươi tốt xinh sao
Quả cau nó ở nơi nào tới đây
Miếng trầu kỳ ngộ cũng may
Hỏi rằng thuốc ở Sơn Tây hàng nào?
Miếng trầu kỳ ngộ cùng dao
Hỏi rằng dao đánh thợ nào bổ cau?
Thế nào em nói trước sau
Thì anh mới dám cầm trầu anh ăn
Chú thích
-
- Thời
- Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
-
- Khế
- Cây thân gỗ vừa, có nhiều cành, không cần nhiều ánh nắng. Hoa màu tím hồng pha trắng, mọc ở nách lá hoặc đầu cành. Quả khế có 5 múi nên lát cắt ngang tạo thành hình ngôi sao, quả còn non màu xanh, khi chín có màu vàng. Có hai giống khế là khế chua và khế ngọt. Cây khế là hình ảnh thân thuộc của làng quê Bắc Bộ.
-
- Vá quàng
- Những người phải lao động, khuân vác nhiều, phần lưng và vai áo thường rách thành lỗ lớn. Người ta vá những chỗ ấy bằng miếng vải to, có khi không trùng màu, gọi là vá quàng.
-
- Lung
- Vùng đầm nước ngập, có bùn.
-
- Tràm
- Một loại cây mọc hoang thành rừng ở đồi núi và vùng ngập mặn. Ở nước ta, Cà Mau nổi tiếng là xứ nhiều tràm. Tràm thường được dùng lấy gỗ hoặc cất tinh dầu từ hoa và lá.
-
- Sình
- Bùn lầy (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Giao ngôn
- Lời hứa, lời ước hẹn (giao nghĩa là bền chặt).
-
- Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).
-
- Mảng
- Mải, mê mải (từ cũ).
-
- Cun cút
- Cũng gọi là chim cút, một loài chim nhỏ cùng họ với gà, đuôi cộc, chân ngắn, lông màu nâu xám, thường sống ở đồi cỏ, lủi rất nhanh trong bụi cây. Chim cút cũng được nuôi để lấy thịt, trứng.
-
- Khoai mì
- Miền Trung và Nam gọi là sắn, một loại cây lương thực cho củ. Củ sắn dùng để ăn tươi, làm thức ăn gia súc, chế biến sắn lát khô, bột sắn nghiền, tinh bột sắn... Sắn cũng thường được ăn độn với cơm, nhất là trong thời kì khó khăn (như thời bao cấp).
-
- Chú ị
- Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, chỉ người hoặc một con vật cưng (cũng như chú ấy).
-
- Tầm
- Đơn vị đo chiều dài ngày trước, bằng năm thước mộc (khoảng 2m hiện nay).
-
- Bưng
- Vùng đồng lầy ngập nước, mọc nhiều cỏ lác. Từ này có gốc từ tiếng Khmer trapéang (vũng, ao), ban đầu đọc là trà bang, trà vang, sau rút lại còn bang rồi biến âm thành bưng. Bưng cũng thường được kết hợp với biền (biến âm của biên) thành bưng biền.
-
- Hẵm
- (Đất) lõm khuyết vào, tạo thành dốc đứng.
-
- Lài
- Thoai thoải.
-
- Gá duyên
- Kết thành nghĩa vợ chồng.
-
- Nguyệt Lão
- Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.
-
- Chưn
- Chân (cách phát âm của Trung và Nam Bộ).
-
- Trợt
- Trượt (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Công
- Một loài chim thuộc họ Trĩ, có tên Hán Việt là khổng tước. Chim trống bộ lông có màu lục óng ánh, đuôi rất dài, có màu lục ánh đồng, mỗi lông ở mút có sao màu lục xanh, đỏ đồng, vàng, nâu. Mào dài, hẹp thẳng đứng, phần mặt của nó có màu vàng và xanh, khi nó múa đuôi xòe ra hình nan quạt để thu hút chim mái. Công mái không có đuôi dài và đẹp như công trống.
-
- Rú
- Núi, rừng nói chung (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Cau
- Loại cây nhiều đốt, thân nhỏ và cao vút, có quả dùng để ăn với trầu.
-
- Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
-
- Giã ơn
- Cảm tạ ơn.
Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn
(Nhị Độ Mai)
-
- Têm trầu
- Quệt vôi vào lá trầu không, cuộn lại rồi cài chặt lại bằng cuống lá để thành một miếng trầu vừa miệng ăn.
-
- Kỳ ngộ
- Gặp gỡ một cách may mắn kỳ lạ (từ Hán Việt).
-