Nhà tôi mượn lấy trời che
Mua tranh lợp hè, thiếu trước hụt sau
Tiền của ở tại nhà giàu
Mắm muối ngoài chợ, củi rau ngoài đường
Nằm thời lấy đất làm giường
Lấy trời làm chiếu, lấy sương làm mền
Xâu làng bắt xuống trì lên
Trầy da tróc thịt, cái tên còn hoài
Không tiền tạm đỡ dĩa khoai
Bữa mô kiếm có thì vài miếng cơm
Ăn rồi ngủ thẳng đầu hôm
Canh hai thức dậy văn Nôm sử Kiều
Tìm kiếm "trinh tiết"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Đi xa anh nhớ quê nhàĐi xa anh nhớ quê nhà 
 Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
 Nhớ tình bố mẹ yêu thương
 Nhớ mảnh vườn, nhớ con đường quen thân
 Nhớ nhà em cách khoảng sân
 Hoa cau thơm ngát mỗi lần gió đưa
 Nhớ nhiều những sớm những trưa
 Đổi công em cấy, cày bừa anh lo
 Nhớ đồng xanh mỏi cánh cò
 Con đê bến cũ con đò ngày xưa.
- 
        
        
        
    
    Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tậtSống mỗi người một nết, 
 Chết mỗi người một tật
- 
        
        
        
    
    Nay em còn cha còn mẹ, còn cô còn bác
- 
        
        
        
    
    Giấn vốn chỉ có ba đồngGiấn vốn chỉ có ba đồng 
 Nửa để nuôi chồng, nửa để nuôi tôi
 Còn thừa mua cái bình vôi
 Mua xanh, mua chảo, mua nồi nấu ăn
 Còn thừa mua nhiễu quấn khăn
 Mua dăm vuông vóc may chăn cho chồng
 Còn thừa mua chiếc thuyền rồng
 Đem ra cửa bể cho chồng thả chơi
 Còn thờ mua khám thờ trời
 Mua tranh sơn thủy treo chơi đầu thuyềnDị bản- Lưng vốn chỉ có mười đồng 
 Phần để nuôi chồng, phần để nuôi tôi
 Còn thừa mua cái bình vôi
 Mua xanh, mua chảo, mua nồi nấu ăn
 Còn thừa mua nhiễu vấn khăn
 Mua dăm vuông vóc may chăn cho chồng
 Còn thừa mua chiếc thuyền rồng
 Đem ra cửa bể cho chồng chèo chơi
 Để chàng tùy thích, thảnh thơi
 Danh lam thắng cảnh, ngược xuôi mặc lòng
 
- 
        
        
        
    
    Chị em một ruột mà raChị em một ruột mà ra 
 Chị giàu em khó hóa ra người ngoài
- 
        
        
        
    
    Gần nhà mà chẳng sang chơiGần nhà mà chẳng sang chơi 
 Để em hái ngọn mồng tơi bắc cầu
 Mồng tơi chẳng bắc được đâu
 Em cởi dải yếm bắc cầu anh sangDị bản- Gần nhà mà chẳng sang chơi 
 Để em hái ngọn mồng tơi bắc cầu
 Bắc cầu anh chẳng đi cầu
 Để tốn công thợ để sầu lòng em
- Gần nhà mà chẳng sang chơi 
 Để anh hái ngọn mồng tơi bắc cầu
 – Bắc cầu em chẳng sang đâu
 Chàng về mua chỉ bắc cầu em sang
 Chỉ xanh chỉ tím chỉ vàng
 Đủ ba thứ chỉ em sang được cầu
 
- 
        
        
        
    
    Duyên kia ai đợi mà chờDuyên kia ai đợi mà chờ 
 Tình này ai tưởng mà tơ tưởng tình
 Sá chi một mảnh gương hình
 Để duyên chờ đợi cho mình say mêDị bản- Còn duyên đâu nữa mà chờ 
 Còn tình đâu nữa mà tơ tưởng tình
 
- 
        
        
        
    
    Có trăng anh phụ lòng đèn
- 
        
        
        
    
    Duyên ta là ngãi tình cờDuyên ta là ngãi tình cờ 
 Bấy lâu luống những ngẩn ngơ chờ chàng
 Gặp nhau đây đá thử vàng
 Miếng trầu thết đãi dạ mang chữ tình
 Tương tư buồn bực trong mình
 Sợ thầy hãi mẹ làm thinh vui cười
 Quên sầu thiếp gượng làm tươi
 Đồ huê nguyệt sợ miệng cười thế gian
 Trốn cha trốn mẹ theo chàng
 Vì chàng nên thiếp lạc ngàn lên đây
 Đến đây thiếp ở lại đây
 Bao giờ quế mọc xanh cây mới về
 Đã đành nên thiếp nên thê
 Nên khăn nên gối không vê cũng tròn
 Non mòn nhưng nghĩa không mòn…
- 
        
        
        
    
    Đêm qua lốp đốp mưa ràoĐêm qua lốp đốp mưa rào 
 Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
 Đôi bên bác mẹ thì già
 Lấy anh hay chữ để mà cậy trông
 Mùa hè cho chí mùa đông
 Mùa nào áo ấy cho chồng đi thi
 Hết gạo em lại gánh đi
 Hỏi thăm chàng học trọ thì nơi nao
 Hỏi thăm phải ngõ mà vào
 Vai đặt gánh gạo, miệng chào: Kìa anh …
- 
        
        
        
    
    Một trăm thứ dầu dầu chi không ai thắp– Một trăm thứ dầu, dầu chi không ai thắp? 
 Một trăm thứ bắp, bắp chi chẳng ai rang?
 Một trăm thứ than, than chi không ai quạt?
 Một trăm thứ bạc, bạc chi bán chẳng ai mua?
 Trai nam nhi anh đối đặng, gái bốn mùa xin theo
 – Một trăm thứ dầu, dầu xoa không ai thắp
 Một trăm thứ bắp, bắp chuối chẳng ai rang
 Một trăm thứ than, than thân không ai quạt
 Một trăm thứ bạc, bạc tình bán chẳng ai mua
 Trai nam nhi anh đối đặng, gái bốn mùa tính sao?Dị bản- – Trong trăm loại dầu, dầu chi là dầu không thắp? 
 Trong trăm thứ bắp, bắp chi là bắp không rang?
 Trong trăm thứ than, than chi là than không quạt?
 Trong ngàn thứ bạc, bạc chi là bạc không đổi không tiêu?
 Trai nam nhi chàng đối đặng, dải lụa điều em trao
 – Trong trăm loại dầu, nắng dãi mưa dầu là dầu không thắp
 Trong trăm thứ bắp, lắp bắp mồm miệng là bắp không rang
 Trong trăm thứ than, than thở than thân là than không quạt
 Một ngàn thứ bạc, bạc tình bạc nghĩa là bạc không đổi không tiêu
 Trai nam nhi anh đà đối đặng, dải lụa điều ở đâu?
 Video
- 
        
        
        
    
    Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
- 
        
        
        
    
    Yêu nhau trao một miếng trầu
- 
        
        
        
    
    Nhắn người ở tận chốn xa
- 
        
        
        
    
    Chàng đề phú thiếp đề thơ
- 
        
        
        
    
    Ra về nước mắt như mưaRa về nước mắt như mưa 
 Đành duyên, đành phận, mà chưa đành lòng
- 
        
        
        
    
    Cô kia má tựa hòn thanCô kia má tựa hòn than 
 Nằm đâu ngủ đấy lại toan chê chồng
 Chê chồng chẳng bõ chồng chê
 Chê chồng thì ít, chồng chê thì nhiều
- 
        
        
        
    
    Thương em cũng muốn thương đờiThương em cũng muốn thương đời 
 Sợ cha sợ mẹ chẳng rời em ra
- 
        
        
        
    
    Trời một vùng đêm dài không hạnTrời một vùng đêm dài không hạn 
 Mượn gió chiều hỏi bạn ngàn sông
 Thân em là gái chưa chồng
 Tơ duyên có chắc như dòng nước không?Dị bản- Trời một vùng đêm dài vô hạn 
 Mượn gió chiều gửi bạn ngàn sông
 Thân em là gái chưa chồng
 Tơ duyên có chắc như dòng nước chăng?
 
Chú thích
- 
    - Cỏ tranh
- Loại cỏ thân cao, sống lâu năm, có thân rễ lan dài, ăn sâu dưới đất. Lá mọc đứng, cứng, gân nổi, dáng lá hẹp dài, mép lá rất sắc, có thể cứa đứt tay. Ở nhiều vùng quê, nhân dân ta thường đánh (bện) cỏ tranh thành tấm lợp nhà. Tro của cỏ tranh có vị mặn, vì vậy thú rừng thường liếm tro cỏ tranh thay cho muối.
 
- 
    - Hè
- Dải đất nền phía trước hoặc chung quanh nhà.
 
- 
    - Xâu
- Cũng gọi là sưu, món tiền mà người đàn ông từ mười tám tuổi trở lên phải nộp (sưu thế), hoặc những công việc mà người dân phải làm cho nhà nước phong kiến hay thực dân (đi xâu).
 
- 
    - Trì
- Lôi, kéo, níu giữ (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Cau
- Loại cây nhiều đốt, thân nhỏ và cao vút, có quả dùng để ăn với trầu.
 
- 
    - Tự tung tự tác
- Tự cho phép mình làm việc, hành động một cách vô tổ chức, mất trật tự.
 
- 
    - Mai dong
- Người làm mai, được xem là dẫn (dong) mối để trai gái đến với nhau trong việc hôn nhân (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Giấn
- Cũng viết là dấn, động tác cố thêm một chút để đặt mình/ sự vật vào tình trạng mới, môi trường mới nhằm đạt được mục đích. Ví dụ: dấn bước = bước cố thêm để đạt được mục đích; dấn thân = cố gắng thêm để đặt thân mình vào một môi trường, tình trạng mới; dấn men = nhúng cốt gốm sứ vào men trước khi nung; dấn vốn = vốn liếng có được sau khi cố gắng huy động.
 
- 
    - Bình vôi
- Ngày xưa nhân dân ta thường hay ăn trầu với cau và vôi. Bình vôi là dụng cụ bằng gốm hay kim loại để đựng vôi ăn trầu, đôi khi được chế tác rất tinh xảo, và tùy theo hình dạng mà cũng gọi là ống vôi.
 
- 
    - Xanh
- Dụng cụ để nấu, làm bằng đồng, có hai quai, giống cái chảo lớn nhưng đáy bằng chứ không cong.
 
- 
    - Nhiễu
- Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát.
 
- 
    - Vuông
- Đơn vị dân gian dùng để đo vải, bằng bề ngang (hoặc khổ) của tấm vải (vuông vải, vuông nhiễu).
 
- 
    - Vóc
- Một loại vải tơ tằm, bóng mịn, có hoa, dệt bằng sợi đồng màu, dùng làm tán thờ thần hay may y phục cho vua chúa, quan lại.
 
- 
    - Khám
- Vật làm bằng gỗ, giống như cái tủ nhỏ không có cánh, dùng để đặt bài vị, đồ thờ, thường được gác hay treo cao.
 
- 
    - Mồng tơi
- Một số địa phương phát âm thành "mùng tơi" hay "tầm tơi", loại dây leo quấn, mập và nhớt. Lá và đọt thân non của mồng tơi thường được dùng để nấu canh, ăn mát và có tính nhuận trường. Nước ép từ quả dùng trị đau mắt.
 
- 
    - Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
 
- 
    - Đặng
- Được, để, nhằm (từ cũ, phương ngữ).
 
- 
    - Ngãi
- Nghĩa, tình nghĩa (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Thầy mẹ
- Cha mẹ (phương ngữ miền Bắc).
Con đi mười mấy năm trời, 
 Một thân, một bóng, nửa đời gió sương.
 Thầy đừng nhớ, mẹ đừng thương,
 Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi!
 Thầy mẹ ơi, thầy mẹ ơi,
 Tiếc công thầy mẹ đẻ người con hư!
 (Thư gửi thầy mẹ - Nguyễn Bính)
 
- 
    - Nguyệt hoa
- Cũng viết là hoa nguyệt (trăng hoa), chỉ chuyện trai gái yêu đương. Từ này có gốc từ nguyệt hạ hoa tiền (dưới trăng, trước hoa, những cảnh nên thơ mà trai gái hẹn hò để tình tự với nhau), nay thường dùng với nghĩa chê bai.
Cởi tình ra đếm, ra đong 
 Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa?
 (Tơ xuân - Huy Trụ)
 
- 
    - Quế
- Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý (Quế chi) trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ.
 
- 
    - Thê
- Vợ (từ Hán Việt).
 
- 
    - Bác mẹ
- Cha mẹ (từ cổ).
 
- 
    - Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Thinh thinh
- Thênh thênh (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Trầu
- Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu.
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. 
 
- 
    - Bén
- Chạm vào, quen với, gắn bó với.
Lá thư tình xưa nhớ lúc trao tay 
 Còn e ấp thuở duyên vừa mới bén
 (Lá thư ngày trước - Vũ Hoàng Chương)
 
- 
    - Cầm bằng
- Kể như, coi như là (từ cũ).
 
- 
    - Câu đối
- Một thể loại sáng tác văn chương có nguồn gốc từ Trung Quốc, gồm hai vế đối nhau - nếu từ một người sáng tác gọi là vế trên và vế dưới, nếu một người nghĩ ra một vế để người khác làm vế kia thì gọi là vế ra (vế xuất) và vế đối. Câu đối thường biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nhân dân ta có phong tục viết hoặc xin câu đối trong các dịp lễ tết để cầu hạnh phúc, may mắn.
Một đôi câu đối chữ Hán: Bảo kiếm phong tùng ma lệ xuất 
 Mai hoa hương tự khổ hàn lainghĩa là: Hương hoa mai đến từ giá lạnh 
 Kiếm sắc quý là bởi giũa mài.
 
- 
    - Đình
- Công trình kiến trúc cổ truyền ở làng quê Việt Nam, là nơi thờ Thành hoàng, và cũng là nơi hội họp của người dân trong làng.
 
- 
    - Nghiên
- Đồ dùng để mài mực hoặc son khi viết chữ Hán hoặc gần đây là thư pháp.
 
- 
    - Tơ duyên
- Sợi tơ hồng ràng buộc đôi trai gái. Chỉ tình yêu nam nữ, tình duyên vợ chồng. Xem chú thích Nguyệt Lão.
 
 
                                
                            













