Ðố ai biết lúa mấy cây
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng
Ðố ai quét sạch lá rừng
Ðể ta khuyên gió, gió đừng rung cây
Rung cây, rung cỗi, rung cành
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng
Tìm kiếm "cánh gà"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Chị về thưa với mẹ cha
- 
        
        
        
    
    Chồng muống, chồng cà
- 
        
        
        
    
    Bớ thảm ơi, bớ thiết ơiBớ thảm ơi, bớ thiết ơi 
 Bớ bạn nhân tình ơi
 Thân em như cái quả xoài trên cây
 Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc
 Nó đánh lúc la, lúc lắc trên cành
 Một mai vô tình rụng xuống, biết vào tay ai
 Kìa khóm trúc, nọ khóm mai
 Ông Tơ, bà Nguyệt xe hoài chẳng thương
 Một lần chờ, hai lần đợi
 Sớm lần nhớ, chớ lần thương
 Anh thương em nhưng bác mẹ họ hàng chẳng thương
- 
        
        
        
    
    Cây cao bóng cả duyên mònCây cao bóng cả duyên mòn 
 Ước gì tôi được chồng con với người
 Có anh như đũa có đôi
 Vắng anh em vẫn ngậm ngùi nhớ thương
 Khối tơ vương ruột tằm vấn vít
 Bởi ông Tơ bà Nguyệt chưa se
 Quan tướng nghe hiệu lệnh thì về
 Chữ dục đã vậy chữ tùy làm sao
 Muốn cho Đông liễu Tây đào
 Cảnh sầu bể thảm lẽ nào thiếp sang
 Phòng khi lỡ bước theo chàng
 Lấy ai chầu chực thánh hoàng quốc gia
 Phòng khi thiếp ở lại nhà
 Một mình thân thiếp biết là làm sao?
- 
        
        
        
    
    Ai về Phú Lộc gửi lờiAi về Phú Lộc gửi lời 
 Thư này một bức nhắn người tri âm
 Mối tơ chín khúc ruột tằm
 Khi tháng tháng đợi khi năm năm chờ
 Vì tình ai lẽ làm lơ
 Cắm sào quyết chí đợi chờ bến xuân
 Ước sao chỉ Tấn tơ Tần
 “Sắc cầm hòa hợp” lựa vần “quan thư”
 Đôi bên ý hiệp lòng ưa
 Đắp đền công thiếp lại vừa lòng anh
 Thiếp thời tần tảo cửi canh
 Chàng thời nấu sử sôi kinh kịp thì
 Một mai chúa mở khoa thi
 Bảng vàng chói lọi có đề tên anh
- 
        
        
        
    
    Đầu làng cây duốiĐầu làng cây duối, 
 Cuối làng cây đa
 Cây duối anh để làm nhà
 Cây đa bóng mát nàng ra anh chào
 Đôi tay nâng cái khăn đào
 Bằng khi hội hát anh trao cho nàng
 Túi anh những bạc cùng vàng
 Để anh kéo nhẫn cho nàng đeo tay
 Dù ai bấu chí nàng bay
 Thì nàng phải giữ nhẫn này cho anh
 Dù ai bẻ lá vin cành
 Thì nàng phải nhớ lời anh dặn dò
- 
        
        
        
    
    Con cua mà có hai càng
- 
        
        
        
    
    Tôi chào cô Hai như sao mai rạng mọcTôi chào cô Hai như sao Mai rạng mọc 
 Tôi chào cô Ba như hạt ngọc lung linh
 Tôi chào cô Tư như thủy tinh trong vắt
 Tôi chào cô Năm như hương ngát bông lan
 Tôi chào cô Sáu như hào quang lóng lánh
 Tôi chào cô Bảy như cuốn sách chạm bìa vàng
 Tôi chào cô Tám như hai làng liễn cẩn
 Chào cô Chín như rồng ẩn mây xanh
 Chào cô Mười như chim oanh uốn lưỡi trên cành
 Chào rồi tôi chụp hỏi rành rành
 Hỏi căn cơ hà xứ phụ mẫu cùng huynh đệ thiểu đa
 Hỏi cho biết cửa biết nhà
 Nhờ ông mai tới nói, nay tới chết tôi cũng quyết giao hòa với một cô.
- 
        
        
        
    
    Bắt ốc (hát ghẹo Phú Thọ)Em lên rừng 
 Em bứt quả bứa chua
 Em xuống khe
 Em bắt cái ốc lặn, cùng cái ốc lội
 Em tra vào giỏ
 Em bỏ vào thời
 Em “vê nó màng”
 Em mang nó về
 Em thả vào nồi
 Em bẵng nó lên
 Nó sôi sùng sục
 Nó sủi sình sịch
 Em đổ nó ra
 Em xóc chí cha
 Là cha chí chát
 Em xơi lên bát
 Em múc lên loa
 Em mút chí cha
 Là cha chí chút
 Chì chà là chà chì chụt
 Canh ốc thì ngọt
 Canh bứa chua loè.
- 
        
        
        
    
    Ớ cô Hai mày ơi– Ớ cô Hai mày ơi! 
 Ta thấy cô Hai mày bảnh lảnh bẻo lẻo,
 Ta cũng muốn tình tang tang tình.
 Đi đâu đứng đó một mình,
 Lại đây ta hỏi tiết trinh lẽ nào.
 Có thương ta, ta mới bước vào,
 Phượng loan cất cánh hòa giao ân tình.
 – Nghe lời nói đó thất kinh,
 Bông sen tàn ai nỡ cắm lộc bình bát xưa.
 Cóc mà mang guốc ai ưa,
 Đỉa đeo chân hạc, sao vừa mà mong.
 Thôi thôi, đừng tưởng đừng hòng.
 Ta đây có xấu, cũng con dòng lương gia.
 Vô duyên ở vậy tới già,
 Dại chi lấy chú, để thiên hạ mà cười chê.
 Vụng về dốt nát đủ bề,
 Suốt năm suốt tháng, giữ bề ở trai.
 – Ớ cô kia, đừng khoe sắc khoe tài,
 Tốt xinh chi đó, chê ai trai cày.
 Sử kinh ta nắm trong tay,
 Tỉ như vua Thuấn còn cày Lịch Sơn.
 Mãi Thần lúc trước khổ bần,
 Trọng Yêm, Hàn Tín ra thân khó hèn.
 – Thôi thôi, chú đừng nhắc tích vòng vo,
 Mấy ông thủa trước, ai so cho bằng.
 Chú ăn học sao không thấy đi thi,
 Ăn thì xó bếp, nằm thì chuồng trâu.
 Chạng không xứng chạng, đừng cầu uổng công.
- 
        
        
        
    
    Vè chim chócThứ hay lớn tiếng 
 Tu hú ác là
 Nhảy nhót lân la
 Chích chòe bìm bịp
 Tính hay ăn hiếp
 Chim cú, diều hâu
 Sang đứng lưng trâu
 Sáo hành, sáo nghệ …
- 
        
        
        
    
    Nhà tôi mượn lấy trời cheNhà tôi mượn lấy trời che 
 Mua tranh lợp hè, thiếu trước hụt sau
 Tiền của ở tại nhà giàu
 Mắm muối ngoài chợ, củi rau ngoài đường
 Nằm thời lấy đất làm giường
 Lấy trời làm chiếu, lấy sương làm mền
 Xâu làng bắt xuống trì lên
 Trầy da tróc thịt, cái tên còn hoài
 Không tiền tạm đỡ dĩa khoai
 Bữa mô kiếm có thì vài miếng cơm
 Ăn rồi ngủ thẳng đầu hôm
 Canh hai thức dậy văn Nôm sử Kiều
- 
        
        
        
    
    Nhớ cơn chung chiếu chung giườngNhớ cơn chung chiếu chung giường 
 Nhớ cơn chung lược, chung gương, chung phòng
 Nhớ cơn chung gối, chung mùng
 Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan
 Nhớ cơn nguyệt đổi sao tàn
 Cùng nhau thu cúc xuân lan sánh bày
 Liễu đông sánh với đào tây
 Nước non chỉ nguyện rồng mây đá vàng …
- 
        
        
        
    
    Hoa phi đào phi cúcHoa phi đào phi cúc 
 Sắc phi lục phi hồng
 Trơ như đá vững như đồng
 Ai xô không ngã, ngọn gió lồng không xao
 Mỉa mai cụm liễu cửa đào
 Ong qua muốn đậu, bướm vào muốn bu
 Bốn mùa đông hạ xuân thu
 Khi búp, khi nở, khi xù, khi tươi
 Chúa xuân ngó thấy mỉm cười
 Sắc hay vương vấn mấy người tài danh
 Có bông, có cuống, không cành
 Ở trong có nụ, bốn vành có tua
 Nhà dân cho chí nhà vua
 Ai ai có của cũng mua để dành
 Tử tôn do thử nhi sanh
 Bạch huê mỹ hiệu xin phành ra coi
- 
        
        
        
    
    Trương Chi (hát xẩm)Ngày xưa có anh Trương Chi 
 Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay
 Cô Mỵ Nương người ở lầu Tây
 Con quan thừa tướng ngày rày cấm cung
 Anh Trương Chi ở dưới dòng sông
 Chở đò ngang dọc suốt đêm đông anh dãi dầu
 Đêm thanh chàng hát một câu
 Gió đưa thoang thoảng đến lầu cô Mỵ Nương
 Cô Mỵ Nương nghe tiếng hát thì thương
 Mà trông thấy mặt anh chường lại chê
 Anh Trương Chi bèn trở ra về
 Cắm sào cho chặt anh mới hát thề một câu:
 “Kiếp này đã lỡ duyên nhau
 Xin nguyền kiếp khác duyên sau lại thành!” …
- 
        
        
        
    
    Miệng bà kí lớn, bà kí banh
- 
        
        
        
    
    Than rằng: Khát đứng bờ aoDị bản
- 
        
        
        
    
    Làm nhà ở dựa bờ sôngLàm nhà ở dựa bờ sông 
 Sáng trông cá lội chiều trông chim gùDị bản- Làm nhà ở cạnh bờ sông, 
 Đêm nghe cá quẫy, ngày trông chim gù.
 
- 
        
        
        
    
    Thài lài mọc giữa đồng khôngDị bản- Thài lài mọc cạnh bờ sông 
 Tuy rằng xanh tốt vẫn tông thài lài
 
Chú thích
- 
    - Nghiến đốt
- Cọ xát thật mạnh nhằm làm mòn phẳng các đốt lồi lên trên thân cây tre. Đây là một công đoạn trong sơ chế tre trúc.
 
- 
    - Nhà chữ môn
- Nhà được xây theo lối cổ, gồm một ngôi ở giữa và hai ngôi hai bên, nhìn như chữ môn 門.
 
- 
    - Bình văn
- Bình luận, nhận xét về văn chương. Đây là một cách dạy học, đồng thời là một nét văn hóa xưa.
 
- 
    - Khánh
- Nhạc cụ gõ làm bằng tấm đồng, thường có hình giống lưỡi rìu, treo lên bằng một sợi dây.
 
- 
    - Phượng hoàng
- Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.
 
- 
    - Loan
- Theo một số điển tích thì phượng hoàng là tên chung của một loại linh vật: loan là con mái, phượng là con trống. Cũng có cách giải nghĩa khác về loan, mô tả loan là một loài chim giống với phượng hoàng. Trong văn thơ cổ, loan và phụng thường được dùng để chỉ đôi vợ chồng hoặc tình cảm vợ chồng (đèn loan, phòng loan...)
Nào người phượng chạ loan chung, 
 Nào người tiếc lục tham hồng là ai
 (Truyện Kiều)
 
- 
    
- Đây là trò chơi dân gian tương tự trò Nu na nu nống.
 
- 
    - Trúc
- Một loại cây giống tre, mọc thành bụi, lá nhỏ và thưa hơn lá tre. Do trúc có dáng đẹp nên được trồng làm cây cảnh. Trong văn chương ngày xưa, trúc thường được dùng tượng trưng cho hình ảnh người quân tử, hoặc người con gái.
 
- 
    - Mai
- Còn gọi là mơ, một loại cây thân nhỏ, nhiều cành, rất phổ biến các nước Đông Á, nhất là Trung Quốc và Nhật Bản. Cây ra hoa vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân. Hoa mai nhỏ, mỗi hoa có năm cánh, thường hoa có màu trắng, mặc dù một số giống mai có thể cho hoa màu hồng hay đỏ sẫm. Trong văn học cổ, mai thường được dùng như một hình ảnh ước lệ, đại diện cho người phụ nữ. Lưu ý, cây mai này không phải là loại mai vàng của miền Nam nước ta.
 
- 
    - Nguyệt Lão
- Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.
 
- 
    - Kết tóc xe tơ
- Kết tóc: Thuở xưa, con trai và con gái đều để tóc dài bới lên đầu. Trong đêm tân hôn, tóc của dâu rể được các nữ tì buộc vào nhau. Xe tơ: Xem chú thích Nguyệt Lão. 
Kết tóc xe tơ có nghĩa là cưới nhau, thành vợ thành chồng. 
 
- 
    - Bác mẹ
- Cha mẹ (từ cổ).
 
- 
    - Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.
 
- 
    - Tri âm
- Bá Nha đời Xuân Thu chơi đàn rất giỏi, thường phàn nàn thiên hạ không ai thưởng thức được tiếng đàn của mình. Một lần Bá Nha đem đàn ra khảy, nửa chừng đàn đứt dây. Đoán có người rình nghe trộm, Bá Nha sai lục soát, bắt được người đốn củi là Tử Kỳ. Tử Kỳ thanh minh rằng nghe tiếng đàn quá hay nên dừng chân thưởng thức. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, tâm trí nghĩ tới cảnh non cao, Tử Kỳ nói: Nga nga hồ, chí tại cao sơn (Tiếng đàn cao vút, ấy hồn người ở tại núi cao). Bá Nha chuyển ý, nghĩ đến cảnh nước chảy, Tử Kỳ lại nói: Dương dương hồ, chí tại lưu thủy (Tiếng đàn khoan nhặt, ấy hồn người tại nơi nước chảy). Bá Nha bèn kết bạn với Tử Kỳ. Sau khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập vỡ đàn mà rằng "Trong thiên hạ không ai còn được nghe tiếng đàn của ta nữa." Do tích này, hai chữ tri âm (tri: biết, âm: tiếng) được dùng để nói về những người hiểu lòng nhau.
 
- 
    - Tấn Tần
- Việc hôn nhân. Thời Xuân Thu bên Trung Quốc, nước Tần và nước Tấn nhiều đời gả con cho nhau. Tấn Hiến Công gả con gái là Bá Cơ cho Tần Mục Công. Tần Mục Công lại gả con gái là Hoài Doanh cho Tấn Văn Công. Việc hôn nhân vì vậy gọi là việc Tấn Tần.
Trộm toan kén lứa chọn đôi, 
 Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa.
 (Truyện Hoa Tiên)
 
- 
    - Sắt cầm
- Đàn sắt và đàn cầm, hai loại đàn của Trung Quốc. Tương truyền, đàn sắt do vua Phục Hy chế ra vào khoảng gần ba nghìn năm trước công nguyên, còn đàn cầm do vua Thuấn chế ra khoảng một nghìn năm sau đó. Đàn sắt và đàn cầm thường được đánh hòa với nhau, vì vậy chữ sắt cầm, duyên cầm sắt được dùng để chỉ tình cảm vợ chồng.
Chàng dù nghĩ đến tình xa 
 Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Quan thư
- Bài thơ mở đầu Kinh Thi. Thật ra những bài thơ trong Kinh Thi đều không có tiêu đề, người biên soạn thường lấy một hai từ đầu của bài thơ để đặt cho dễ nhớ. Riêng ở đây từ “quan thư” có thể hiểu là tiếng “chim thư kêu.” Bốn câu đầu của bài như sau:
Quan quan thư cưu 
 Tại hà chi châu.
 Yểu điệu thục nữ,
 Quân tử hảo cầu
 
- 
    - Hiệp
- Họp, hợp (sum họp, hòa hợp) (phương ngữ Nam Bộ).
 
- 
    - Tảo tần
- Cũng như tần tảo, chỉ người phụ nữ khéo thu vén công việc trong nhà. Tần 苹 là bèo, tảo 藻 là rong, hai thứ rau cỏ mọc dưới nước, người Trung Hoa cổ dùng vào việc cúng tế. Thơ "Thái tần" trong Kinh Thi ca ngợi người vợ biết chu toàn việc cúng tế tổ tiên, viết: "Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân. Vu dĩ thái tảo, vu bỉ hành lạo" (Hái bèo ở đâu, bên bờ khe nam. Hái rong ở đâu, bên lạch nước kia). "Tảo tần" còn chỉ sự vất vả cực khổ.
 
- 
    - Thì
- Thời, lúc.
 
- 
    - Chúa
- Chủ, vua.
 
- 
    - Đa
- Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 (cây nhiều rễ), “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.”
 
- 
    
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về , hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Sao Kim
- Hành tinh thứ hai trong hệ Mặt Trời, khi xuất hiện lúc chiều tối thì được gọi là sao Hôm, khi xuất hiện lúc sáng sớm thì được gọi là sao Mai. Người xưa lầm tưởng sao Hôm và sao Mai là hai ngôi sao riêng biệt. Trong thi ca, sao Hôm là hoán dụ của hoàng hôn, còn sao Mai là hoán dụ của bình minh.
 
- 
    - Lan
- Tên chung của một họ cây thân thảo lưu niên, thường cho hoa đẹp, do đó được trồng rất phổ biến. Hoa lan rất đa dạng về màu sắc và hình dạng, nhưng hoa của tất cả những loài lan đều có cấu tạo gồm ba lá đài và ba cánh hoa, trong đó có một cánh môi, luôn to hơn và có hình dạng rất khác hai cánh hoa còn lại. Vì ba lá đài của hoa lan khá giống với những cánh hoa chính nên thường có sự nhầm lẫn là hoa lan có sáu cánh. Hoa lan thường được chia làm phong lan, sống trên những thân gỗ mục lơ lửng trên cao, và địa lan, mọc trên lớp đất mùn. Hoa lan ưa nơi râm mát và độ ẩm cao nên những khu rừng và cao nguyên ở nước ta như Nam Cát Tiên, Tây Nguyên, Yên Bái, Sa Pa là nơi sống của nhiều loài lan quý như giả hạc, ngọc điểm, lan hài, ...
 
- 
    - Liễn
- Dải vải hoặc giấy, hoặc tấm gỗ dài dùng từng đôi một, trên có viết câu đối, thường mang ý nghĩa tốt đẹp, cầu hạnh phúc may mắn cho chủ nhà. Liễn thường được treo song song với nhau, gọi là cặp (đôi) liễn.
 
- 
    - Oanh
- Tên gọi chung của một số loài chim có bộ lông đẹp và giọng hát hay. Trong văn chương cổ, chim oanh tượng trưng cho điều cao quý.
Gần xa nô nức yến oanh 
 Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
 (Truyện Kiều)
 
- 
    - Làm mai
- Còn gọi là làm mối, mai mối. Người làm mai gọi là ông (bà) mối hay ông (bà) mai, là người đứng trung gian, giới thiệu cho hai bên trai gái làm quen hoặc cưới nhau.
 
- 
    - Nghĩa giao hòa
- Nghĩa vợ chồng (dùng trong ca dao dân ca).
 
- 
    - Bứa
- Một loài cây có cành đâm ngang, lá có chất chua nên thường được dùng làm rau gia vị hoặc nấu canh chua, quả ăn được.
 
- 
    - Thời
- Cái giỏ cá (phương ngữ).
 
- 
    - Bẵng
- Bắc nồi lên bếp (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Bát loa
- Loại bát nông, gần giống đĩa, vành rộng. Có nơi cũng gọi là bát ô tô.
 
- 
    - Độc bình
- Đọc trại là lục bình hoặc lộc bình, một vật dụng bằng gỗ, sứ hoặc đồng, dạnh thuôn, cổ cao, dùng để cắm hoa trên bàn thờ hoặc để trang trí.
 
- 
    - Lương
- Hiền lành, tử tế (từ Hán Việt).
 
- 
    - Gia
- Nhà (từ Hán Việt).
 
- 
    - Thuấn, Nghiêu
- Vua Thuấn và vua Nghiêu, hai vị vua kế tiếp nhau trong huyền sử Trung Hoa cổ. Tương tuyền rằng đây là hai vị minh quân và thời Nghiêu Thuấn được coi là thời thái bình an lạc.
 
- 
    - Chu Mãi Thần
- Một nhân vật đời Hán ở Trung Quốc. Điển tích kể rằng thuở hàn vi, nhà nghèo, Mãi Thần phải đi đốn củi rừng đem bán nhưng có tính ham đọc sách, thường treo sách đầu gánh, vừa đi vừa đọc. Vợ là Thiệt Thê không chịu nổi cảnh nghèo túng, bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần được công thành danh toại, trên đường vinh quy thì gặp lại vợ cũ. Thiệt Thê xin tha lỗi, cho nàng trở lại làm vợ. Mãi Thần lấy bát nước đầy, đổ xuống đất, bảo nếu hốt lại đầy bát nước như trước, sẽ nhận nàng về làm vợ như xưa.
Chèo cổ Việt Nam có vở Chu Mãi Thần ra đời vào thế kỉ 19, không rõ tác giả. Đến nay, người ta chỉ còn trích diễn một vở hài phát triển trên vở này có tên Tuần ti đào Huế. 
 
- 
    - Phạm Trọng Yêm
- Một nhà chính trị, nhà văn, nhà quân sự, nhà giáo dục thời Bắc Tống, Trung Quốc. 
 
 
- 
    - Hàn Tín
- Một danh tướng thời nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, có công giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ, lập nên nhà Hán. Ông cùng với Trương Lương và Tiêu Hà được đời sau xưng tụng là Hán triều tam kiệt (ba vị hào kiệt nhà Hán). Sau khi thiên hạ bình định, Hán Cao Tổ Lưu Bang vì e ngại tài năng của Hàn Tín nên giáng chức ông xuống thành Hoài Âm hầu, tước quyền bính. Đến năm 196 TCN, Hàn Tín mưu phản, bị Lã Hậu giết cả ba họ.
Trong lịch sử Trung Quốc, Hàn Tín là một trong những danh tướng được nhắc đến nhiều nhất. Nhiều điển tích, điển cố như cơm phiếu mẫu, lòn trôn giữa chợ, câu nói "Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh; cao điểu tận, lương cung tàn..." là từ ông mà ra. 
 
- 
    - Đồng chạng
- Cùng lứa, cùng tuổi (phương ngữ Nam Bộ). Chạng là cách đọc trại của trượng.
 
- 
    - Tu hú
- Một loài chim có kích cỡ khá lớn, ăn quả và côn trùng, có tiếng kêu to dễ phân biệt. Chúng là chim đẻ nhờ, đẻ trứng của mình vào tổ của các loài chim khác, đặc biệt vào tổ của các loài chim dạng sẻ.
 
- 
    - Ác là
- Còn có tên là bồ các, một loại chim lớn (có thể dài từ 40-50 cm) có đầu, cổ và ngực màu đen bóng, bụng và vai màu trắng. Ác là loài ăn tạp, chúng có thể ăn từ chim non tới trứng, thú, sâu bọ nhỏ, hạt ngũ cốc và nhiều thứ khác. Có lẽ vì vậy trong ca dao dân ca, ác là thường tượng trưng cho điều xấu hoặc những kẻ độc ác. Tuy nhiên trong văn hóa Trung Quốc, ác là lại có tên là hỉ thước, tượng trưng cho điềm lành.
 
- 
    - Chích chòe
- Tên chung của một số loài chim nhỏ, đuôi dài, ăn sâu bọ. Các loại chính chòe thường gặp là chích chòe than (lông màu đen, có đốm trắng), chích chòe lửa (có bụng màu gạch đỏ như lửa), chích chòe đất... Hiện nay chích chòe thường được nuôi làm cảnh.
 
- 
    - Bìm bịp
- Tên chung để chỉ khoảng 30 loài chim do tiếng kêu của chúng tương tự như "bìm bịp" vào mùa sinh sản. Bìm bịp có lông cánh màu nâu như áo của thầy tu.
 
- 
    - Cú
- Một loài chim ăn thịt, thường kiếm mồi vào ban đêm, có mắt lớn ở phía trước đầu. Người xưa xem cú là loài vật xấu xa, tượng trưng cho những người hoặc việc xấu, việc xui xẻo.
 
- 
    - Diều hâu
- Loài chim dữ, mỏ quặp, có thị lực rất sắc bén, hay bắt gà, chuột, rắn.
 
- 
    - Sáo
- Tên chung của một số loài chim nhỏ, có bộ lông sẫm màu, thường sống trong các hốc, lỗ, và đẻ trứng có vỏ màu xanh lam hoặc trắng. Vài loài sáo có khả năng bắt chước tiếng người, nên thường được nuôi làm chim cảnh.
 
- 
    - Cỏ tranh
- Loại cỏ thân cao, sống lâu năm, có thân rễ lan dài, ăn sâu dưới đất. Lá mọc đứng, cứng, gân nổi, dáng lá hẹp dài, mép lá rất sắc, có thể cứa đứt tay. Ở nhiều vùng quê, nhân dân ta thường đánh (bện) cỏ tranh thành tấm lợp nhà. Tro của cỏ tranh có vị mặn, vì vậy thú rừng thường liếm tro cỏ tranh thay cho muối.
 
- 
    - Hè
- Dải đất nền phía trước hoặc chung quanh nhà.
 
- 
    - Xâu
- Cũng gọi là sưu, món tiền mà người đàn ông từ mười tám tuổi trở lên phải nộp (sưu thế), hoặc những công việc mà người dân phải làm cho nhà nước phong kiến hay thực dân (đi xâu).
 
- 
    - Trì
- Lôi, kéo, níu giữ (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Nguyệt
- Mặt trăng (từ Hán Việt).
 
- 
    - Rồng mây
- Còn nói hội rồng mây, hội long vân, chỉ việc gặp thời cơ tốt, công danh hiển đạt, nguyên từ một câu trong Kinh Dịch "Vân tùng long, phong tùng hổ" (mây theo rồng, gió theo hổ), ý nói những vật cùng khí loại thường cảm ứng mà tìm đến nhau. Trong ca dao Nam Bộ, rồng mây lại biểu trưng cho sự hòa hợp gắn bó giữa đôi lứa trong tình yêu.
 
- 
    - Đá vàng
- Cũng nói là vàng đá, lấy ý từ từ Hán Việt kim thạch. Kim là kim khí để đúc chuông, đỉnh. Thạch là đá. Ngày trước, những lời vua chúa hoặc công đức của nhân vật quan trọng được khắc ghi trên bia đá hay chuông, đỉnh đồng để lưu truyền mãi mãi. Đá vàng vì thế chỉ sự chung thủy son sắt, hoặc sự lưu truyền tên tuổi mãi mãi về sau.
 
- 
    - Liễu
- Một loại cây thân nhỏ, lá rủ. Liễu xuất hiện rất nhiều trong thơ ca Á Đông, và thường tượng trưng cho người con gái chân yếu tay mềm.
 
- 
    - Đào
- Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, cũng được trồng để lấy quả hay hoa. Hoa đào nở vào mùa xuân, là biểu tượng của mùa xuân và ngày Tết ở miền Bắc. Quả đào vị ngọt hoặc chua, mùi thơm, vỏ quả phủ một lớp lông mịn. Đào xuất hiện rất nhiều trong văn học cổ Trung Quốc và các nước đồng văn. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau.
 
- 
    - Chí
- Đến, kéo dài cho đến (từ Hán Việt).
 
- 
    - Tử tôn do thử nhi sanh
- Con cháu từ chỗ ấy mà sinh ra.
 
- 
    - Thậm
- Rất, lắm.
 
- 
    - Tể tướng
- Chức quan cao nhất dưới thời phong kiến, có nhiệm vụ thay mặt vua để giải quyết chuyện chính sự của một đất nước. Tùy theo thời đại, vị trí này có thể có tên là thừa tướng hoặc tướng quốc. Nước ta có các tể tướng nổi danh như Nguyễn Quán Nho, Lý Đạo Thành, Tô Hiến Thành, Trần Thủ Độ...
 
- 
    - Cấm cung
- Cấm không được phép ra khỏi nhà, không được phép tự do tiếp xúc với người ngoài (thường nói về con gái nhà quyền quý thời phong kiến).
 
- 
    - Chường
- Chàng (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Kí lục
- Một trong hai chức quan phụ tá cho chức quan lưu thủ đứng đầu một tỉnh dưới thời nhà Nguyễn (chức quan kia là cai bạ). Quan kí lục coi việc lễ nghi, khánh tiết, hình án và thưởng phạt cấp dưới. Vị quan kí lục nổi tiếng nhất có lẽ là ông Nguyễn Cư Trinh, trước là kí lục tỉnh Quảnh Bình, sau có công bình định vùng đồng bằng sông Cửu Long về cho nhà Nguyễn. 
Trong thời Pháp thuộc, kí lục chỉ người làm nghề ghi chép sổ sách trong các sở, còn gọi là thầy kí. 
 
- 
    - Cai
- Từ gọi tắt của cai vệ, chức danh chỉ huy một tốp lính dưới thời thực dân Pháp.
 
- 
    - Bánh vẽ
- Hình vẽ chiếc bánh. Nghĩa bóng chỉ thứ trông có vẻ tốt đẹp nhưng không có thật, chỉ đưa ra để lừa bịp.
 
- 
    - Chiêm bao
- Nằm mơ.
 
- 
    - Đông Ngạc
- Tên nôm là làng Vẽ hay kẻ Vẽ, một làng cổ ở nằm sát chân cầu Thăng Long, thuộc huyện Từ Liêm, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km. Đông Ngạc được coi là một trong những làng cổ nhất của Hà Nội. Làng còn được gọi là "làng tiến sĩ" do có rất nhiều vị tiến sĩ Hán học và Tây học, đồng thời nổi tiếng với nghề truyền thống là làm nem.
 
- 
    - Thài lài
- Cây thân cỏ, thường mọc hoang ở những nơi đất ẩm, lá hình trái xoan nhọn, hoa màu xanh lam hay tím. Được dùng làm thuốc chữa viêm họng, viêm thận, phù thũng, phong thấp, viêm khớp, rắn cắn...
 
 
                                
                            




























