Em là con gái nhà giàu
Cơm cha, áo mẹ, chạy tàu đi chơi
Gia Lâm, Phú Thị chàng ơi
Đình Dù là chốn ăn chơi ra vào
Lạc Đạo cho tới Xuân Đào
Trong ba ga ấy em vào cả ba.
Tìm kiếm "gà hành"
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Một đêm là năm trống canhMột đêm là năm trống canh 
 Tôi kể ngọn ngành cho chúng bạn nghe:
 Canh một thì đi cất te
 Canh hai trở về nấu cám lợn ăn
 Canh ba đổ gạo vô đâm
 Canh tư nhấm trấu bắc hầm nồi ngô
 Canh năm chợp mắt lơ mơ
 Chồng vừa vào rờ, gà gáy rạng đông
 Năm canh nỏ bén hơi chồng
 Vì con mụ cả, khổ không hỡi trời!
 Cái cảnh chồng chung cực lắm chị em ơi!
- 
        
        
        
    
    Ba bà đi chợ với nhauBa bà đi chợ với nhau 
 Một bà đi trước kể chuyện nàng dâu
 Một bà đi sau tu tu lên khóc
 Nhà bà có phúc cưới được dâu hiền
 Nhà tôi vô duyên cưới cô dâu dại
 Việc làm thì rái, chỉ tưởng những ăn
 Hễ bảo quét sân đánh chết ba gà
 Bảo đi quét nhà, đánh chết ba chó
 Có mâm giỗ họ miếng ra miếng vào
 Rửa bát cầu ao liếm dĩa quèn quẹt …
- 
        
        
        
    
    Lưng đằng trước
- 
        
        
        
    
    Sáng mai ăn một bụng cơm noSáng mai ăn một bụng cơm no 
 Xách cái rổ đi chợ bến đò
 Mua chín cái trách, xách chín cái lò
 Đem về:
 Cái kho canh ngò
 Cái kho canh cải
 Cái nấu nải chuối xanh
 Cái nấu canh rau má
 Cái nấu cá chim chim
 Cái kho rim thịt vịt
 Cái kho thịt con gà
 Cái kho cà, đu đủ
 Cái kho củ môn tây
 Trời chiều bóng xế trăng xây
 Ham chơi lê lựu, bỏ chín cái trách này quên nêmDị bản- Tay em cầm mớ trách đặt quách lên lò 
 Một cái kho ngò
 Hai cái kho cải
 Ba cái kho nải chuối xanh
 Bốn cái nấu canh rau má
 Năm cái kho cá chim chim
 Sáu cái kho rim trứng vịt
 Bảy cái làm thịt con gà
 Tám cái kho cà, thù đủ
 Chín cái kho củ môn tây
 Em theo anh cho đến đoạn này
 Tay chân đà bải hoải, chín cái trách này quên nêm .
 
- 
        
        
        
    
    Buồn về một tiết tháng giêngBuồn về một tiết tháng giêng 
 May áo cổ kiềng người mặc cho ai
 Buồn về một tiết tháng hai
 Bông chửa ra đài người đã hái hoa
 Buồn về một tiết tháng ba
 Con mắt la đà trong dạ tương tư
 Buồn về một tiết tháng tư
 Con mắt lừ đừ cơm chả buồn ăn
 Buồn về một tiết tháng năm
 Chưa đặt mình nằm gà gáy chim kêu
 Buồn về tiết tháng sáu này
 Chồng cày vợ cấy chân chim đầy đồng
 Bấy giờ công lại hoàn côngDị bản- Buôn bấc rồi lại buôn dầu 
 Buôn nhiễu đội đầu, buôn nhẫn lồng tay
 Sầu về một tiết tháng giêng
 May áo cổ kiềng người mặc cho ai
 Sầu về một tiết tháng hai
 Bông chửa ra đài người đã hái hoa
 Sầu về một tiết tháng ba
 Mưa héo ruộng cà nắng cháy ruộng dưa
 Sầu về một tiết tháng tư
 Con mắt lừ đừ cơm chẳng buồn ăn
 Sầu về một tiết tháng năm
 Chưa đặt mình nằm gà gáy sang canh
 
- 
        
        
        
    
    Nhà anh chỉ có một gian– Nhà anh chỉ có một gian 
 Nửa thì làm bếp, nửa toan làm buồng
 Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường
 Chỉ ấm ổ rạ, nàng thương chăng là?
 – Yêu nhau chẳng quản cửa nhà
 Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo
 Yêu nhau chẳng quản giàu nghèo
 Không bùa không thuốc mà theo mới là.
- 
        
        
        
    
    Mồng một lưỡi traiMồng một lưỡi trai 
 Mồng hai lá lúa
 Mồng ba câu liêm
 Mồng bốn lưỡi liềm
 Mồng năm liềm giật
 Mồng sáu thật trăng
 Mười rằm trăng náu
 Mười sáu trăng treo …
- 
        
        
        
    
    Vè nói ngượcVe vẻ vè ve 
 Cái vè nói ngược
 Non cao đầy nước
 Đáy biển đầy cây
 Dưới đất lắm mây
 Trên trời lắm cỏ
 Người thì có mỏ
 Chim thì có mồm
 Thẳng như lưng tôm
 Cong như cán cuốc
 Thơm nhất là cú
 Hôi nhất là hương …
- 
        
        
        
    
    Tôi lạy ông Cầu bà QuánTôi lạy ông Cầu bà Quán 
 Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi
 Nó ăn nó chơi
 Như con ngựa ngáp
 Việc làm thì nhác
 Lại hay nỏ mồm
 Củ từ khoai môn
 Bao nhiêu cũng chứa
 Vớt bèo thì ngứa
 Xay thóc nhức đầu
 Chăn trâu ngã nắng
 Chồng giận có mắng
 Thì lại hờn cơm
 Ra chân đống rơm
 Cắn chắt trừ bữa
 Nhà có đám giỗ
 Luộc gà quăng mề
 Thổi cơm thì khê
 Rang vừng thì cháy
 Con mắt nhấp nháy
 Ăn vụng thành thần
 Lấy giẻ chùi chân
 Lấy rơm lau bát…Dị bản- Tôi lạy ông Cầu bà Quán 
 Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi
 Nó ăn nó chơi
 Nó tươi nó cười
 Như con ngựa ngáp
 Làm ăn chậm chạp
 Có tí nỏ mồm
 Đi chợ bao nhiêu khoai lang củ từ cũng chứa
 Vớt bèo thì ngứa
 Xay lúa nhức đầu
 Chăn trâu ngã nắng
 Chồng giận chồng mắng
 Có tính hờn cơm
 Ra chân đống rơm
 Cắn chắt trừ bữa
 Nay lần mai lữa
 Mày giống tính ai?
 
- 
        
        
        
    
    Vè chợ LườngChợ Lường họp lại vui thay 
 Đàng đông lúa gạo, đàng tây tru bò
 Xã đã khéo lo
 Lập lều hai dãy
 Hàng sồi hàng vải
 Thì kéo lên đình
 Hàng xén xung quanh
 Hàng thịt hàng lòng ở giữa
 Ngong vô trửa chợ
 Chộ thị với hồng
 Dòm ngang xuống sông
 Chộ thuyền với lái
 Ngong sang bên phải
 Chộ những vịt gà
 Hàng nhãn, hàng na
 Hàng trầu, hàng mấu
 Hàng ngô, hàng đậu
 Hàng mít, hàng cà
 Hàng bánh, hàng quà
 Hàng chi có cả
 Rồi nào hàng cá
 Hàng bưởi, hàng bòng …
- 
        
        
        
    
    Ngó ra ngoài biển láng laiNgó ra ngoài biển láng lai 
 Em xa anh cách, lòng ai không buồn?
 Lênh đênh kẻ biển người nguồn,
 Em xa, anh cách không cuồng cũng điên
 Vui chung rồi lại buồn riêng,
 Hay vầy lúc trước gá duyên làm gì!
- 
        
        
        
    
    Bài ca người lính hôm nayTrải bao cuộc chiến, thắng rồi, 
 Nay thời dân lính về ngơi, kiếm nghề:
 Đầu đường đại tá vá xe,
 Giữa đường trung tá bán chè đậu đen
 Cuối đường thiếu tá bán kem,
 Trong làng đại úy thổi kèn đám ma
 Trước sân thượng úy nuôi gà,
 Đầu hồi trung úy chăm và chú heo
 Ao sâu thiếu úy vớt bèo,
 Vườn sau thượng sĩ leo trèo bẻ cau
 Gốc đa trung sĩ cúp đầu,
 Bờ đê hạ sĩ hái rau “tập tàng”
 Xóm ngoài binh nhất vót nan,
 Xóm trong binh nhị gảy đàn ống bơ
 Ca rằng “trí dũng có thừa…”
 Bởi “chiến tranh” mới ra cơ sự này!Dị bản- Đầu đường đại tá vá xe 
 Giữa đường trung tá bán chè đậu đen
 Cuối đường thiếu tá bán kem
 Về hưu đại úy thổi kèn đám ma
 Thượng úy thì đi buôn gà
 Trung úy về nhà lại bám đít trâu
 Hỏi rằng thiếu úy đi đâu
 Ba lô lộn ngược nhảy tàu Bắc Nam
- Đầu đường đại tá vá xe 
 Cuối đường trung tá bán chè đỗ đen
 Đại úy thì bán dầu đèn
 Để cho trung úy thổi kèn đám ma
 
- 
        
        
        
    
    Cưới nàng anh toan dẫn voiCưới nàng anh toan dẫn voi 
 Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn
 Dẫn trâu sợ họ máu hàn
 Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân
 Miễn là có thú bốn chân
 Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng
 Chàng dẫn thế em lấy làm sang
 Nỡ nào em lại phá ngang như là…
 Người ta thách lợn thách gà
 Nhà em thách cưới một nhà khoai lang
 Củ to thì để mời làng
 Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi
 Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
 Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà
 Bao nhiêu củ rím, củ hà
 Để cho con lợn, con gà nó ăn…
- 
        
        
        
    
    Buồn về một nỗi tháng GiêngBuồn về một nỗi tháng Giêng 
 Con chim, cái cú nằm nghiêng thở dài
 Buồn về một nỗi tháng Hai
 Ðêm ngắn, ngày dài thua thiệt người ta
 Buồn về một nỗi tháng Ba
 Mưa rầu, nắng lửa người ta lừ đừ
 Buồn về một nỗi tháng Tư
 Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
 Buồn về một nỗi tháng Năm
 Chửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêu.
 Bước sang tháng Sáu lại đều
 Thiên hạ cày cấy râm riu ngoài đồng.
- 
        
        
        
    
    Anh nên kiếm lấy một người
- 
        
        
        
    
    Em là con gái nhà quêEm là con gái nhà quê 
 Ham bên tài sắc nhiều bề ái ân
 Chẳng ham tham phú phụ bần
 Duyên rằng duyên phải nợ nần nhau đây
 Chàng có sang, chàng phải chọn ngày
 Mối manh cho rõ xe dây xích thằng
 Cầm cân chàng nhấc cho bằng
 Một bên cối đá một đằng tiền cheo
 Hỏi chàng rằng có hay nghèo
 Lệ làng phải sửa bấy nhiêu mới từng …
- 
        
        
        
    
    Hỡi anh làm thợ nơi naoHỡi anh làm thợ nơi nao 
 Để em gánh đục, gánh bào đi theo
 Cột queo anh đẽo cho ngay
 Anh bào cho thẳng, anh xoay một bề
 Bốn cửa chạm bốn con nghê
 Bốn con nghê đực chầu về xứ Đông
 Bốn cửa chạm bốn con rồng
 Ngày thời rồng ấp tối thời rồng leo
 Bốn cửa chạm bốn con mèo
 Đêm thời bắt chuột, ngày leo xà nhà
 Bốn cửa chạm bốn con gà
 Đêm thì gà gáy, ngày ra bới vườn
 Bốn cửa chạm bốm con lươn
 Ngày thì chui ống tối trườn xuống ao
 Bốn cửa chạm bốn con dao
 Chăm thì liếc sắc, chăm chào thì quen
 Bốn cửa chạm bốn cây đèn
 Ngày thì đèn tắt tối thì đèn chong
 Bốn cửa chạm bốn cái cong
 Để em gánh nước tưới hồng tưới hoa
 Ngày mai khi anh về nhà
 Trăm năm em gọi anh là chồng em
- 
        
        
        
    
    Đứng bên ni thấy chiếc thuyền năm vánĐứng bên ni thấy chiếc thuyền năm ván 
 Ngó sang bên kia, thấy chiếc quán năm gian
 Thuyền năm ván đang đợi người thương nhớ
 Quán năm gian đang đợi người nhớ thương
 Một em nói rằng thương,
 Hai em nói rằng nhớ
 Trách ông trời làm lỡ duyên anh
 Anh ngồi gốc cây chanh
 Anh đứng cội cây dừa
 Nước mắt anh nhỏ như mưa
 Ướt cái quần cái áo
 Cái quần anh vắt chưa ráo
 Cái áo anh vắt chưa khô
 Thầy mẹ gả bán khi mô
 Tiếc công anh lặn suốt giang hồ
 Trời cao anh kêu không thấu
 Đất rộng anh kêu nọ thông
 Những người bòn của bòn công
 Nam mô A Di Đà Phật, anh phủi tay không anh về.
- 
        
        
        
    
    Ơn Phật ơn trờiƠn Phật, nhờ trời 
 Cha mẹ sinh hạ được mười anh em
 Anh Cả nhàn thật là nhàn
 Cởi trần đóng khố, đốt than trong rừng
 Anh Hai vặn chão đánh thừng
 Anh Ba làm mướn kiếm lưng cơm người
 Anh Tư bắt ếch, mình ơi
 Anh Tư bắt rắn, bắt dơi ngoài đồng
 Anh Sáu đánh giậm dưới sông
 Anh Bảy kéo lưới ở đồng làng ta
 Anh Tám vác gạo trên ga
 Anh Chín gánh mướn chợ xa chợ gần
 Còn anh là út thanh tân
 Có nghe anh kể, lại gần mà nghe
Chú thích
- 
    - Gia Lâm
- Địa danh nay là một huyện ngoại thành, ở về phía Đông của thành phố Hà Nội. Tại đây nổi tiếng với làng gốm Bát Tràng, đồng thời là quê hương của hai nhân vật trong Tứ Bất Tử: Chử Đồng Tử và Thánh Gióng, cùng với nhiều danh nhân văn hóa - lịch sử khác: Nguyên phi Ỷ Lan, Ngọc Hân công chúa, Lý Thường Kiệt...
 
- 
    - Phú Thị
- Tên Nôm là Sủi, tên Hán Việt là Thổ Lỗi, nay là xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Đây một làng cổ có từ thời Lý-Trần, quê hương của Nguyên phi Ỷ Lan và thi hào Cao Bá Quát. "Sủi" là một từ Việt cổ, có biến âm là Lỗi (hay Luỗi), nên sau được Hán Việt hóa thành Thổ Lỗi. Tại đây có lễ hội làng Sủi, diễn ra trong ba ngày từ 1 đến 3/3 âm lịch, để tưởng nhớ đến công đức của Nguyên phi Ỷ Lan và Tướng quân Đào Liên Hoa.
 
- 
    - Đình Dù
- Địa danh nay là một xã thuộc huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
 
- 
    - Lạc Đạo
- Địa danh nay là một xã thuộc huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
 
- 
    - Xuân Đào
- Địa danh nay là một thôn thuộc xã Lương Tài, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
 
- 
    - Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
 
- 
    - Te
- Một dụng cụ bắt tép trông rất giống cái vó, nhưng nhỏ hơn nhiều. Te gồm hai nan tre vót mảnh dài cỡ hai mét buộc chéo nhau ở giữa, phía dưới bốn đọt nan tre này được buộc vào một mảnh vải mùng hình vuông mỗi cạnh dài cỡ 8 tấc, không quá thưa để tép lọt qua, cũng không quá dày sẽ cản nước, cất lên chậm, tép sẽ nhảy hết ra ngoài. Thường một người đi cất te lúc nào cũng phải có từ vài chục cái te trở lên. Trước khi đi cất te, mọi người thường dùng cám trộn với mỡ heo rang lên thật thơm để làm mồi nhử tép. Chọn một đám ruộng, ao hồ hay mép rào nào đó. Dùng tay vén sạch cỏ rác rong rêu rồi đặt te xuống, chờ đáy te chìm sát đáy bùn thì nhón tay vắt một nhúm cám rang ném vào giữa te dụ tép. Đặt xong cái này thì đặt qua cái khác, đặt đến cái cuối cùng thì bắt đầu quay lại nhấc cái đầu tiên lên để đổ tép, và cứ lặp đi lặp lại như vậy cho đến khi ra về.
 
- 
    - Đâm
- Giã, như đâm bèo, đâm tiêu... (phương ngữ).
 
- 
    - Nhấm
- Nhóm lửa, đốt lửa.
 
- 
    - Nỏ
- Không, chẳng (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Rái
- Sợ hãi, e ngại. Có chỗ đọc là dái.
 
- 
    - Bánh đúc
- Bánh nấu bằng bột gạo tẻ hoặc bột ngô quấy với nước vôi trong, khi chín đổ ra cho đông thành tảng, thường được ăn kèm với mắm tôm. Bánh đúc là món quà quen thuộc của làng quê.
 
- 
    - Trách
- Một loại nồi đất, hơi túm miệng, đáy bầu, hông phình.
 
- 
    - Ngò
- Còn gọi là ngò rí, rau mùi, loại rau có mùi thơm, thường được trồng làm rau thơm và gia vị.
 
- 
    - Rau má
- Một loại cây thân thảo ngắn ngày, thường được trồng để ăn tươi hoăc sắc lấy nước uống. Nước rau má có tác dụng giải độc, hạ huyết áp, làm mát cơ thể. Lá rau má hình thận, nhỏ bằng đồng xu.
 
- 
    - Cá chim
- Một loài cá biển, mình dẹp và cao, mồm nhọn, vẩy nhỏ, vây kín.
 
- 
    - Môn tây
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Môn tây, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Thù đủ
- Đu đủ (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).
 
- 
    - Chửa
- Chưa (từ cổ, phương ngữ).
 
- 
    - Nhiễu
- Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát.
 
- 
    - Câu liêm
- Dụng cụ gồm một lưỡi quắm hình lưỡi liềm lắp vào cán dài, dùng để móc vào mà giật, cắt những vật ở trên cao. Ngày xưa câu liêm còn được dùng làm vũ khí.
 
- 
    - Liềm
- Một nông cụ cầm tay có lưỡi cong khác nhau tùy từng loại, phía lưỡi thường có răng cưa nhỏ (gọi là chấu), dùng để gặt lúa hoặc cắt cỏ. Liềm có thể được xem là biểu tượng của nông nghiệp.
 
- 
    - Trăng náu
- Có ý kiến cho rằng trăng náu bắt nguồn từ "trăng đáo" nghĩa là trăng đầy, đủ.
 
- 
    - Trăng treo
- Có ý kiến cho rằng trăng treo bắt nguồn từ "trăng chiêu," nghĩa là trăng sáng.
 
- 
    - Cú
- Một loài chim ăn thịt, thường kiếm mồi vào ban đêm, có mắt lớn ở phía trước đầu. Người xưa xem cú là loài vật xấu xa, tượng trưng cho những người hoặc việc xấu, việc xui xẻo.
 
- 
    - Xạ hương
- Chất do hươu xạ và một số loại cầy tiết ra, có mùi thơm đặc biệt, thường được khai thác làm hương liệu, nước hoa và các loại dược phẩm.
 
- 
    - Ông Cầu bà Quán
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Ông Cầu bà Quán, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Nỏ mồm
- Lắm lời và lớn tiếng, thường hay cãi lại người khác.
 
- 
    - Khoai từ
- Loại khoai thuộc họ củ nâu. Ở Việt Nam, loại có gai phân bố ở Phú Quốc, loại không gai phân bố rộng rãi, ngoài ra còn có củ từ nước mọc ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Khoai từ thường dùng làm lương thực, thực phẩm và là một vị thuốc với nhiều công dụng.
 
- 
    - Khoai môn
- Tên một số giống khoai gặp nhiều ở nước ta, cho củ có nhiều tinh bột, ăn được. Có nhiều giống khoai môn như môn xanh, môn trắng, môn tím, môn tía, môn bạc hà, môn sáp, môn sen, môn thơm, môn trốn... mỗi loại có những công dụng khác nhau như nấu canh, nấu chè... Trước đây môn, sắn, khoai, ngô... thường được ăn độn với cơm để tiết kiệm gạo.
 
- 
    - Ngã nắng
- Hiện tượng kiệt sức, ra nhiều mồ hôi, thở nhanh, có thể ảnh hưởng đến tính mạng do ở lâu ngoài nắng.
 
- 
    - Hờn cơm
- Hờn dỗi, bỏ bữa ăn. Cũng gọi là dỗi cơm.
 
- 
    - Cắn chắt
- Cắn ăn hạt lúa (cho vui miệng hoặc đỡ đói).
Về ngóng cô nàng xưa cắn chắt 
 cười lia dăm hạt cốm
 giờ đã nằm sương giậu lả tầm xuân
 (Người không về - Hoàng Cầm)
 
- 
    - Khoai lang
- Một loại cây nông nghiệp với rễ củ lớn, chứa nhiều tinh bột, có vị ngọt, gọi là củ khoai lang. Nhân dân ta trồng và sử dụng khoai lang làm lương thực, tận dụng cả phần củ (rễ), thân, và lá.
 
- 
    - Chợ Lường
- Tên dân gian của chợ Đô Lương, một ngôi chợ nay thuộc địa phận huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Thời Pháp thuộc, chợ là địa điểm tập trung dân phu để đi làm đường. Đến bây giờ, chợ Lường vẫn được coi như là biểu tượng của cảnh bán buôn sầm uất, tấp nập trong vùng.
 
- 
    - Tru
- Trâu (phương ngữ một số vùng Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Lụa sồi
- Lụa dệt bằng tơ tằm nhưng sợi thô, nếu sợi dệt xe đôi thì gọi là sồi xe, khác với lụa tơ tằm được dệt bằng tơ tằm sợi nhỏ nên mỏng, mềm và mịn hơn.
 
- 
    - Hàng xén
- Cửa hàng tạp hóa hoặc gánh hàng chuyên bán những thứ vặt vãnh như kim, chỉ, đá lửa, giấy bút...
Những cô hàng xén răng đen 
 Cười như mùa thu tỏa nắng
 (Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm)
 
- 
    - Ngong
- Ngóng (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Trửa
- Giữa (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Chộ
- Thấy (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Hồng
- Loại cây cho trái, khi chín có màu vàng cam hoặc đỏ. Tùy theo giống hồng mà quả có thể giòn hoặc mềm, ngọt hoặc còn vị chát khi chín.
 
- 
    - Mấu
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Mấu, hãy đóng góp cho chúng tôi.
 
- 
    - Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
 
- 
    - Bòng
- Một loại quả rất giống bưởi. Ở một số tỉnh miền Trung, người ta không phân biệt bưởi và bòng. Trong ca dao hay có sự chơi chữ giữa chữ "bòng" trong "đèo bòng" và quả bòng.
 
- 
    - Và
- Vài.
 
- 
    - Rau tập tàng
- Các loại rau trộn lẫn với nhau, mỗi loại một ít, thường dùng để nấu canh. Có nơi gọi là rau vặt.
 
- 
    - Ống bơ
- Vỏ lon đồ hộp. Trước dân ta hay dùng vỏ lon sữa đặc để đong gạo.
 
- 
    - Quốc cấm
- Bị pháp luật cấm.
 
- 
    - Máu hàn
- Cơ thể ở tạng lạnh, với những biểu hiện như: sợ rét, chân tay lạnh...
 
- 
    - Phá ngang
- Cố ý làm ảnh hưởng, làm hỏng công việc đang làm của người khác.
 
- 
    - Khoai hà
- Khoai bị bệnh đốm đen, khi luộc không mềm, vị đắng không ăn được, còn gọi là khoai rím.
 
- 
    - Vần cơm
- Xoay nồi cơm trong bếp cho chín đều.
 
- 
    - Vãi
- Ném vung ra.
 
- 
    - Nhút
- Còn gọi là rau rút, quyết, quyết thái, một loại cây thân xốp, mọc bò trên mặt nước, có mùi thơm đặc trưng. Thân và lá nhút thường được dùng để ăn sống hoặc chế biến thành nhiều món luộc, xào, lẩu, v.v. Nhút còn là vị thuốc Đông y có tác dụng giải nhiệt, nhuận tràng, an thần.
 
- 
    - Ái ân
- Nguyên nghĩa là tình ái và ân huệ khắng khít với nhau. Về sau được hiểu là sự âu yếm, giao hợp của vợ chồng hay cặp tình nhân.
 
- 
    - Tham phú phụ bần
- Vì ham giàu (phú) mà phụ bạc người nghèo khó (bần).
 
- 
    - Mối manh
- Làm mối (đồng nghĩa với mai mối).
 
- 
    - Nguyệt Lão
- Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.
 
- 
    - Cheo
- Khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái khi làm lễ dạm hỏi theo tục lệ xưa.
 
- 
    - Dùi đục
- Còn gọi là đục, dụng cụ gồm một thanh thép có chuôi cầm, đầu có lưỡi sắc, dùng để tạo những chỗ lõm hoặc những lỗ trên các vật rắn như gỗ, đá, kim loại.
 
- 
    - Bào
- Đồ dùng nghề mộc, gồm hai lưỡi thép đặt trong khối gỗ, hai bên có tay cầm, dùng để làm nhẵn mặt gỗ. Động tác sử dụng bào cũng gọi là bào. Những việc đau lòng cũng được ví von là xót như bào, ruột xót gan bào...
 
- 
    - Queo
- Cong, bị biến dạng.
 
- 
    
- 
    - Xứ Đông
- Tên một địa danh cổ, một trấn ở phía Đông của Kinh thành Thăng Long xưa. Xứ Đông bao gồm một vùng văn hóa rộng lớn ở Đông Bắc đồng bằng sông Hồng, gồm các tỉnh Hải Dương (nằm ở trung tâm), Hải Phòng, Quảng Ninh và một phần đất thuộc hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình.
 
- 
    - Rồng ấp
- Hay rồng phủ, giao long (交龍), một loại họa tiết cổ thường thấy trong các kiến trúc thời Lý, Trần, có hình hai con rồng quấn nhau hay đuôi xoắn vào nhau.
 
- 
    - Liếc
- Miết đi miết lại lưỡi dao vào đá mài hoặc vật cứng để dao sắc hơn.
 
- 
    - Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Giang hồ
- Từ hai chữ Tam giang (ba dòng sông: Kinh Giang thuộc Hồ Bắc, Tùng Giang thuộc Giang Tô, Chiết Giang thuộc tỉnh Chiết Giang) và Ngũ hồ (năm cái hồ: Bà Dương Hồ thuộc Giang Tây, Thanh Thảo Hồ và Động Đình Hồ thuộc Hồ Nam, Đan Dương Hồ và Thái Hồ thuộc Giang Tô) đều là các địa danh được nhiều người đến ngao du, ngoạn cảnh ở Trung Hoa ngày xưa. Từ giang hồ vì thế chỉ những người sống phóng khoáng, hay đi đây đi đó, không nhà cửa. Nếu dùng cho phụ nữ, từ này lại mang nghĩa là trăng hoa, không đứng đắn.
Giang hồ tay nải cầm chưa chắc 
 Hình như ta mới khóc hôm qua
 Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
 Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà.
 (Giang hồ - Phạm Hữu Quang)
 
- 
    - Nam mô A Di Đà Phật
- Câu niệm danh hiệu của Phật A Di Đà, một phép tu hành được sử dụng trong Phật giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông.
 
- 
    - Khố
- Một trong những loại trang phục cổ xưa nhất của nhân loại, gồm một tấm vải dài, khổ hẹp dùng để để bọc và che vùng hạ bộ bằng cách quấn tựa vào vòng thắt lưng. Trước đây nhiều vùng sử dụng, hiện tại khố vẫn còn được sử dụng hạn chế như ở vùng cao, vùng xa nơi còn lạc hậu, ngoài ra một số nước giữ gìn nó như bản sắc văn hóa khi có hội hè. Đóng khố đuôi lươn là kiểu mặc khố có thừa một đoạn buôn thõng ở phía sau cho tới khoeo chân, như cái đuôi con lươn, còn không có thì gọi là khố cộc.
 
- 
    - Dây chão
- Dây thừng loại to, rất bền chắc.
 
- 
    - Giậm
- Đồ đan bằng tre, miệng rộng hình bán cầu, có cán cầm, dùng để đánh bắt tôm cá. Việc đánh bắt tôm cá bằng giậm gọi là đánh giậm.
 
- 
    - Thanh tân
- Tươi trẻ, trong sáng (thường dùng để nói về người phụ nữ).
 
























