Đêm năm canh không chớp mắt canh nào
Đi ra chép miệng, đi vào thở than
Tìm kiếm "canh năm"
-
-
Chắc là giờ Tý canh ba
-
Nhạn lạc bầy ba ngõ kêu sương
-
Đêm năm canh thổn thức
-
Năm canh trằn trọc xốn xang
-
Nghe chàng là khách tài hoa
-
Canh tàn gà gáy hết đêm
Canh tàn gà gáy hết đêm
Làm sao tỏ hết nỗi niềm cho nhau -
Ðó có đủ đôi ăn rồi lại ngủ
Ðó có đủ đôi ăn rồi lại ngủ
Ðây có một mình thức đủ năm canh -
Đêm canh ngày nhật
-
Anh dứt tình thương, đoạn trường cho thiếp
-
Yêu nhau từ thuở chăn bò
Yêu nhau từ thuở chăn bò
Lúc canh khuya gánh nặng, buổi qua đò mưa dông -
Một mình thương chị nhớ anh
Một mình thương chị nhớ anh
Đêm đêm nghe trống cầm canh não nề -
Vì anh em nhớ mẹ thương cha
Vì anh nhớ mẹ thương cha
Cơm ăn chẳng đặng tính ba canh rồi -
Cùng giống nhà Phật sinh ra
-
Chuông trên lầu kêu sáu khắc
Chuông trên lầu kêu sáu khắc
Trống ngoài bắc vội đổ tam canh
Lịch sự chi mà năm bảy người giành
Giả như con cá chợ, ai giành lấy mua -
Năm canh chỉ ngủ có ba
Năm canh chỉ ngủ có ba
Hai canh lo lắng để mà làm ănDị bản
Năm canh thì ngủ lấy ba
Hai canh coi sóc cửa nhà làm ăn
-
Năm canh ngủ lấy hai canh
Năm canh ngủ lấy hai canh
Ba canh thao thức nhớ bạn lành khổ chưa? -
Lộ bất hành bất đáo
Lộ bất hành bất đáo
Chung bất đả bất minh
Bây giờ tôi mới rõ sự tình,
Tại ba với má ở độc, hai đứa mình mới xa.
Ôm lòng sầu, khuya sớm vào ra,
Tai nghe trống điểm canh ba nhớ mình,
Phải chi phụ mẫu thuận tình,
Phụng loan sum hợp phỉ tình ước mơ.
Thương mình chép đặng bài thơ,
Chẳng thương mình giở từng tờ mình coi. -
Quanh năm vất vả làm ăn
Quanh năm vất vả làm ăn,
Thuế ao thuế ruộng thuế thân thuế vườn,
Ngày làm dạ đã không yên,
Đêm nằm sốt ruột trống dồn thâu canh,
Thân người ngày một mỏng manh,
Quan trên quỷ dữ vẫn rình ở bên -
Ngó lên tam sơn, lòng sầu bát ngát
Chú thích
-
- Canh
- Đơn vị tính thời gian ban đêm ngày xưa. Người xưa chia một đêm ra thành năm canh (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo đó, canh một là giờ Tuất (19-21h), canh hai là giờ Hợi (21-23h), canh ba là giờ Tí (23h-1h sáng), canh tư là giờ Sửu (1h-3h), canh năm là giờ Dần (3h-5h). Mỗi lúc sang canh thường có trống điểm, gọi là trống canh.
-
- Bán dạ
- Nửa đêm (chữ Hán).
-
- Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
-
- Khắc
- Đơn vị tính thời gian ban ngày thời xưa. Người xưa chia ban ngày ra thành sáu khắc (đêm năm canh, ngày sáu khắc). Theo Lý Thái Thuận, khắc một là giờ Mão/Mạo (5h-7h), khắc hai là giờ Thìn (7h-9h), khắc ba là giờ Tị (9h-11h), khắc tư là giờ Ngọ (11h-13h), khắc năm là giờ Mùi (13-15h), khắc sáu là giờ Thân (15-17h). Theo đó, giờ Dậu (17-19h) không thuộc về ngày cũng như đêm. Xem thêm chú thích Canh.
-
- Phòng đào
- Cũng gọi là buồng đào (từ cũ trong văn chương). Chỉ phòng riêng của người phụ nữ.
Buồng đào khuya sớm thảnh thơi
Ra vào một mực nói cười như không
(Truyện Kiều)
-
- Đá vàng
- Cũng nói là vàng đá, lấy ý từ từ Hán Việt kim thạch. Kim là kim khí để đúc chuông, đỉnh. Thạch là đá. Ngày trước, những lời vua chúa hoặc công đức của nhân vật quan trọng được khắc ghi trên bia đá hay chuông, đỉnh đồng để lưu truyền mãi mãi. Đá vàng vì thế chỉ sự chung thủy son sắt, hoặc sự lưu truyền tên tuổi mãi mãi về sau.
-
- Và
- Vài.
-
- Đoạn trường
- Đau đớn như đứt từng khúc ruột (đoạn: chặt đứt, trường: ruột). Theo Sưu thần kí, có người bắt được hai con vượn con, thường đem ra hiên đùa giỡn. Vượn mẹ ngày nào cũng đến ở trên cây gần đầu nhà, kêu thảm thiết. Ít lâu sau thì vượn mẹ chết, xác rơi xuống gốc cây. Người ta đem mổ thì thấy ruột đứt thành từng đoạn.
-
- Lộ bất hành bất đáo, chung bất đả bất minh
- Đường không đi không đến được, chuông không đánh không kêu được. Nguyên trích từ sách Tăng quảng hiền văn (tuyển tập những câu ngạn ngữ dân gian của Trung Quốc): "Lộ bất hành bất đáo, sự bất vi bất thành. Nhân bất khuyến bất thiện, chung bất đả bất minh."
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Phụng loan
- Đôi vợ chồng hoặc tình cảm vợ chồng. Xem thêm chú thích phượng và loan.
-
- Tam sơn, tứ hải
- Chỉ mặt đất. Người xưa cho mặt đất gồm tám phần: núi ba, biển bốn, ruộng đất một (tam sơn tứ hải nhất phần điền).
-
- Răng
- Sao (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Luống
- Từ dùng để biểu thị mức độ nhiều, diễn ra liên tục, không dứt.
Vì lòng anh luống âm thầm tha thiết
Gán đời mình trọn kiếp với Dê Sao
(Nỗi lòng Tô Vũ - Bùi Giáng)