Ở đời muôn sự của chung
Dị bản
Ở đời muôn sự của chung,
Quý nhau chỉ một tấm lòng mà thôi.
Ở đời muôn sự của chung,
Quý nhau chỉ một tấm lòng mà thôi.
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
Núi cao chi lắm núi ơi,
Che mất mặt trời chẳng thấy người thương
Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.
Đèo mô cao bằng đèo Cây Cốc?
Dốc mô ngược bằng dốc Mỹ Cang?
Một tiếng anh than hai hàng lệ nhỏ
Em có mẹ già biết bỏ cho ai
Đèo mô cao bằng đèo Sơn Cốc
Dốc mô ngược bằng dốc Mỹ Trang?
Nghe tiếng em than hai hàng lệ nhỏ
Còn chút mẹ già biết bỏ cho ai
Đèo mô cao bằng đèo Sơn Cốc
Dốc mô ngược bằng dốc Mỹ Trang?
Một tiếng em than hai hàng lụy nhỏ
Phụ mẫu già rồi biết bỏ cho ai
Đèo mô cao bằng đèo Phú Cốc?
Dốc mô ngược bằng dốc Xuân Đài?
Anh thương em thương hủy thương hoài
Dẫu mà có ghẻ, có chốc có sài anh vẫn còn thương
Đèo nào cao bằng đèo Châu Đốc?
Gió nào độc bằng gió Gò Công?
Thổi ngọn đông phong lạc vợ xa chồng
Đêm nằm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.
Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc?
Dốc nào ngược bằng dốc Nha Trang?
Mỗi tiếng em than, hai hàng lụy nhỏ
Còn chút mẹ già, biết bỏ cho ai ?
Mẹ già, còn có em trai,
Phận em là gái, nay mai phải theo chồng.
Đèo mô cao bằng đèo Phú Cốc?
Dốc mô ngược bằng dốc Xuân Đài?
Đèo cao, dốc ngược, đường dài
Anh còn qua được, huống chi vài lạch sông.
Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường
Anh về để áo lại đây
Đêm khuya em đắp, gió Tây lạnh lùng
– Gió lạnh lùng lấy mùng mà đắp
Trả áo anh về đi học kẻo trưa
Con cò lặn lội bờ sông,
Muốn lấy vợ đẹp mà không có tiền
Tiếc thay hạt gạo trắng ngần
Đã vo nước đục lại vần than rơm
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vò nước đục lại vần lửa rơm
Công anh bắt tép nuôi cò
Cò ăn cò lớn, cò dò lên cây
Tiếc công anh bắt tép nuôi cò
Cò ăn cò lớn, cao giò bò bay
Biết rằng nông nỗi thế nầy
Thì ông đặp chết từ ngày cò con
Nói lời phải giữ lấy lời
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay
Giờ đây anh nói anh thương
Đến khi vắng mặt anh vấn vương nơi nào?
Tay nâng chén muối, đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Tay bưng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Anh ơi đi lại cho dày
Mẹ thầy không gả, em bày mưu cho.
Ăn cơm một bữa một lưng
Uống nước cầm chừng để dạ thương em
Ăn cơm ba chén lưng lưng
Uống nước cầm chừng để dạ thương em
Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng
Nước uống cầm chừng để dạ thương em
Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng,
Hơi đâu mà giận người dưng thêm phiền
Theo học giả Vương Hồng Sển, địa danh Châu Đốc có nguồn gốc từ tiếng Khmer moat-chrut, nghĩa là "miệng heo."
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
(Đề đô thành Nam trang - Thôi Hộ)
Trần Trọng San dịch:
Mặt người giờ ở nơi nao?
Hoa đào vẫn đó cười chào gió đông.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là "sông Lau," tiếng người Chăm gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, vì chỗ con sông này đổ ra biển mọc rất nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất từ năm 1653.