Chiêm hoa ngâu, bỏ đi đâu không gặt
Dị bản
Lúa chín hoa ngâu, đi đâu mà chẳng gặt
Lúa chín hoa ngâu, đi đâu mà chẳng gặt
Chẳng thanh cũng thể hoa mai
Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh
Chẳng chua cũng thể là chanh
Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ
Miếng ăn là miếng nhục
Miếng ăn là miếng tồi tàn
Một tay đun chín bếp rơm
Một tay nạo mướp chị nhường chồng cho
Một tay đun chín bếp rơm
Tay vo bánh lọc chị nhường chồng cho
Cóc kêu, rêu mọc
Thắp đuốc tìm giàu, giàu chẳng thấy
Cầm gươm chém khó, khó theo sau
Ngồi mát ăn bát vàng
Hồi nào mưa gió bão bùng
Có manh chiếu rách nằm cùng với em
Bây giờ có chả có nem
Có chút tương ớt lại thèm thịt quay
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai?
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm)
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông
(Tì bà - Bích Khê).
Hán và Đường là hai triều đại có thời gian cai trị lâu dài, có ảnh hưởng văn hóa sâu rộng đối với các nước lân cận, vì thế "Trường An" hay "Tràng An" cũng được dùng để phiếm chỉ nơi kinh đô. Ở Việt Nam, kinh đô Hoa Lư thời Đinh, Tiền Lê, và kinh đô Thăng Long thời Lí, Trần, Hậu Lê đều được gọi là Tràng An.