Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Ngẫu nhiên
-
-
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm.
Hãy cân nhắc trước khi bấm xem.Đất em ở dựa bờ rừng
-
Kinh Xáng mới đào, tàu đương chạy
Dị bản
Kinh Xáng mới đào, tàu Tây mới chạy
Thương em thương đại, đừng ngại gần xa
-
Gió nam tốc dải yếm đào
-
Một năm một tuổi một già
Một năm một tuổi một già,
Ba năm một tuổi chi mà đợi anh -
Dân được mùa, sãi chùa có ăn
Dân được mùa, sãi chùa có ăn
-
Nâu sồng nào quản khen chê
-
Bước vô nhà thấy hai chai rượu trắng
-
Gái rẫy chồng mười lăm quan quý
-
Chim bay về tổ từng bầy
Chim bay về tổ từng bầy
Sao anh không liệu mà quay về cùng
Quay về phụng sự non sông
Bấy lâu lầm lẫn lấy công đền bù -
Ở đâu mà chẳng biết ta?
Ở đâu mà chẳng biết ta?
Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên Lôi
Xưa kia ta ở trên trời
Đứt dây rớt xuống làm người trần gian -
Ba chớp ba nháng
Dị bản
Ba chớp ba sáng
-
Con cá dưới sông anh còn bắt bộ
Con cá dưới sông anh còn bắt bộ,
Huống chi em ở trên bờ anh dỗ cũng xiêuDị bản
Con cá dưới sông anh còn bắt bộ,
Huống chi nàng, anh dỗ cũng xiêu
-
Ân tình chưa đặng bao lâu
-
Từ ngày có Phú Lãng Sa
Từ ngày có Phú Lãng Sa
Văn minh thì ít, trăng hoa thì nhiều
Văn minh khắp cả Tây, Tàu
Ông sư cũng húi cái đầu năm xu
Văn minh khắp cả gần xa
Sư ông xe đạp, sư bà xe tayDị bản
-
Khoai lang chấm muối ăn bùi
-
Miền Đông thì được hoa màu
-
Khen ai đem ngõ, trỏ dây
Khen ai đem ngõ, trỏ dây
Mà chàng cũng biết cảnh này có hoa
Con ong đem ngõ, con bướm trỏ đường
Cho nên anh biết nhóm phường ở đây -
Được ăn cả, ngã về không
Được ăn cả,
Ngã về không -
Chồng già vợ trẻ là tiên
Chú thích
-
- Sứ
- Một chức quan cai trị người Pháp đứng đầu trong một tỉnh dưới thời Pháp thuộc.
-
- Phân thơ
- Bức thư phân chia gia tài, ruộng đất, của sính lễ cho con, cháu.
-
- Đoan ngôn
- Lời cam đoan.
-
- Rứa
- Thế, vậy (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Kinh xáng Xà No
- Gọi tắt là kinh (kênh) Xáng, một dòng kênh do thực dân Pháp đào vào năm 1903 nhằm khai thác vùng đất hoang hóa miền Hậu Giang. Kênh rộng 60 m, đáy 40 m, độ sâu từ 2,5-9 m, dài 39 km nối liền sông Hậu (từ sóc Xà No, nay là ngã ba vàm Xáng, Phong Điền, Cần Thơ) đến sông Cái Lớn (ngọn rạch Cái Tư, nay thuộc thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang). Đây là công trình đường thủy lớn đầu tiên của Nam Kì.
-
- Điệu
- Đạo (đạo anh em, đạo vợ chồng...).
-
- Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
-
- Oản
- Bánh làm bằng xôi nếp hoặc bột bánh khảo nén vào khuôn hình nón cụt để cúng.
-
- Phụ mẫu
- Cha mẹ (từ Hán Việt).
-
- Nạp tài
- (Nhà trai) đem đồ sính lễ và một số tiền đến để nhà gái tổ chức đám cưới. Cũng gọi là nạp tệ, hoặc nộp tài.
-
- Rẫy
- Ruồng bỏ, xem như không còn tình cảm, trách nhiệm gì với nhau.
-
- Ba chớp ba nháng
- (Hành động khi) Không thấy rõ, không rõ sự tình.
-
- Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.
-
- Lang Sa
- Pha Lang Sa, Phú Lang Sa, Phú Lãng Sa, hay Lang Sa đều là những cách người Việt thời trước dùng để chỉ nước Pháp, ngày nay ít dùng. Các tên gọi này đều là phiên âm của từ "France".
-
- Nguyệt hoa
- Cũng viết là hoa nguyệt (trăng hoa), chỉ chuyện trai gái yêu đương. Từ này có gốc từ nguyệt hạ hoa tiền (dưới trăng, trước hoa, những cảnh nên thơ mà trai gái hẹn hò để tình tự với nhau), nay thường dùng với nghĩa chê bai.
Cởi tình ra đếm, ra đong
Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa?
(Tơ xuân - Huy Trụ)
-
- Xe kéo
- Cũng gọi là xe tay, một loại xe hai bánh do một người kéo, thường dùng để chở khách. Xe kéo xuất hiện ở nước ta vào khoảng cuối thế kỉ 19, do người Pháp đem qua, và đã trở thành biểu tượng cho sự phân biệt giai cấp, người bóc lột người trong xã hội Pháp thuộc. Sau 1945, xe kéo bị cấm sử dụng ở Việt Nam.
Hàng xóm khóc bằng câu đối đỏ
Ông chồng thương đến cái xe tay
(Mồng hai Tết viếng cô Ký - Tú Xương)
-
- Tri âm
- Bá Nha đời Xuân Thu chơi đàn rất giỏi, thường phàn nàn thiên hạ không ai thưởng thức được tiếng đàn của mình. Một lần Bá Nha đem đàn ra khảy, nửa chừng đàn đứt dây. Đoán có người rình nghe trộm, Bá Nha sai lục soát, bắt được người đốn củi là Tử Kỳ. Tử Kỳ thanh minh rằng nghe tiếng đàn quá hay nên dừng chân thưởng thức. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, tâm trí nghĩ tới cảnh non cao, Tử Kỳ nói: Nga nga hồ, chí tại cao sơn (Tiếng đàn cao vút, ấy hồn người ở tại núi cao). Bá Nha chuyển ý, nghĩ đến cảnh nước chảy, Tử Kỳ lại nói: Dương dương hồ, chí tại lưu thủy (Tiếng đàn khoan nhặt, ấy hồn người tại nơi nước chảy). Bá Nha bèn kết bạn với Tử Kỳ. Sau khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập vỡ đàn mà rằng "Trong thiên hạ không ai còn được nghe tiếng đàn của ta nữa." Do tích này, hai chữ tri âm (tri: biết, âm: tiếng) được dùng để nói về những người hiểu lòng nhau.
-
- Xạ hương
- Chất do hươu xạ và một số loại cầy tiết ra, có mùi thơm đặc biệt, thường được khai thác làm hương liệu, nước hoa và các loại dược phẩm.
-
- Làng Quả Linh (tức làng Cảo Linh, còn có tên Nôm là làng Gạo) thuộc xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, Nam Định xưa kia chia thành bốn giáp là giáp Đông, giáp Cầu, giáp Chải, giáp Cuối. Giáp là một loại đơn vị hành chính, cũng là một đơn vị tổ chức xã hội có ở miền Bắc nước ta từ khoảng thế kỉ thứ 10, tương đương một thôn hay một phường bây giờ.