Nói đơn nói phung
Dị bản
Kẻ nói đơn, người nói phung
Kẻ nói đơn, người nói phung
Anh đi trả nợ nước non
Xin đừng bận bịu vợ con ở nhà
Xa em, thảm lắm em ơi
Đường đi cỏ mọc, chỗ ngồi nhện giăng
Mau mồm mau miệng
Kẻ đi kiệu, người đánh cờ
Kẻ thời đọc sách người xem thơ nói tuồng
Chồng tôi trốn tránh luôn luôn
Chuyện chi không nói giả tuồng đứa câm
Nghĩ ra chuốc khổ vào thân
Trách cho bà Nguyệt xe lầm mối tơ
Tiếc công phu mấy đợi mấy chờ
Sĩ nho không gặp, gặp đứa khờ làm chi
Hay vầy tui chẳng có chồng chi
Một mình ở vậy quy y lên chùa
Đêm khuya giục bóng trăng tà
Sao mai đã mọc, tiếng gà gọi con
Vằng vặc giãi tấm lòng son
Lại thêm con vượn véo von bên ghềnh
Chém cha cái sắc khuynh thành
Làm cho mắc tiếng phao danh để đời
Trách ai sao khéo vẽ vời
Trách ai khéo đặt những lời bướm ong
Sông sâu nước chảy đôi dòng
Biết đâu mà đọ tấm lòng cho đang
Được đằng chân lân đằng đầu
Răng thưa, da trắng: gái hay
Răng thưa, mặt sẫm: đổi thay chuyện tình
Trăng lên khỏi núi trăng nghiêng
Ta muốn vui chung với bạn, sợ láng giềng mỉa mai
Mắm cua chấm với đọt vừng
Họ xa mặc họ, ta đừng bỏ nhau
Kết tóc xe tơ có nghĩa là cưới nhau, thành vợ thành chồng.
Về tên gọi, "bộ" đây có nghĩa là diễn xuất của nghệ sĩ đều phải phân đúng từng bộ diễn, nên gọi là "hát bộ", "diễn bộ", "ra bộ.. Gọi là “hát bội” là vì trong nghệ thuật hóa trang, đào kép phải đeo, phải giắt (bội) những cờ phướng, lông công, lông trĩ… lên người. Còn "tuồng" là do chữ "Liên Trường" (kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn), do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng," "luôn tuồng..."
Xem vở hát bội Thần nữ dâng Ngũ Linh Kỳ.