Buồn chiều, buồn cả sáng mai
Một ngày đằng đẵng là hai cơn buồn
Ngẫu nhiên
-
-
Rạp hát bóng chào rào chộn rộn
Rạp hát bóng chào rào chộn rộn
Sở đồ hình ngồi đứng chỉnh tề
Thăm em một chút anh về,
Chơi khuya lính bắt khó bề phân buaDị bản
Nhà hát bóng chào rào chộn rộn
Sở chụp hình ngồi đứng chỉnh tề
Thăm em một chút anh về
Chơi khuya lính bắt khó bề phân qua
-
Chớ lo rằng muộn công danh
Chớ lo rằng muộn công danh
Khoa này chẳng đỗ để dành khoa sau. -
Chẳng chè chẳng chén sao say?
Chẳng chè chẳng chén sao say?
Chẳng thuơng chẳng nhớ, sao hay đi tìm? -
Cây đa ba nhánh chín chồi
-
Xa mỏi chân, gần mỏi miệng
-
Em như cây quế giữa rừng
Dị bản
Thân em như cây quế giữa rừng
Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hayỞ như cây quế trong rừng
Cay không ai biết, ngọt đừng ai hay
-
Chàng ơi, trời đã rạng đông
Chàng ơi, trời đã rạng đông,
Chàng dậy ra đồng, thiếp dậy nấu cơm. -
Chú ăn rồi chú lại ngồi
-
Tay cầm nọc cấy chợt thấy bạn vàng
-
Ông mất chân giò, bà thò chai rượu
Ông mất chân giò,
Bà thò chai rượu -
Chồng em coi bộ tinh anh
-
Duyên ta bắt bén duyên mình
Duyên ta bắt bén duyên mình
Cũng như câu đối dán đình thờ vua -
Cau non trầu lộc mỉa mai
Cau non trầu lộc mỉa mai
Da trắng tóc dài, đẹp với ai đây? -
Có sừng thì đừng có nanh
Dị bản
Có sừng thì đừng có ngạnh
Có sừng thì đừng hàm trên
-
Mâm thau em chùi cám
-
Chiều tà bóng ngả nương dâu
Chiều tà bóng ngả nương dâu,
Vin cành bẻ lá em sầu duyên tơ.
Tiếc công tháng đợi năm chờ,
Tưởng chàng có nghĩa, ai ngờ theo Tây.
Vùi thân trong đám bùn lầy,
Nước nào rửa sạch nhục này chàng ơi! -
Ai đi đâu đấy hỡi ai
Ai đi đâu đấy hỡi ai
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm?
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay bể Bắc anh tìm bể Đông
Tìm bể Ðông thấy lông chim nhạn
Tìm bể cạn thấy đàn chim di
Ai mang nhân ngãi ta đi
Thì mang nhân ngãi ta về cho ta!Dị bản
Ai đi đâu đấy hỡi ai
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm?
Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể Bắc anh tìm bể Đông
Bể Đông không bóng chim bay
Hôm qua là chín, hôm nay là mười
Tìm em đã mướt mồ hôi
Lại đứt nút áo, lại rơi khăn đầu
Tìm em chẳng thấy em đâu
Lội sông ướt áo, qua cầu tủi ghe
Có nghe nín lặng mà nghe
Những lời anh nói như se vào lòng
-
Những người lúa đụn tiền kho
-
Tham tiền tham bạc thì giàu
Tham tiền tham bạc thì giàu
Chớ tham gánh nặng mà đau xương mình
Chú thích
-
- Rạp hát bóng
- Rạp chiếu phim (từ cũ).
-
- Sở đồ hình
- Trại giam (từ cũ).
-
- Thông Lãng
- Một làng nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Hưng Nguyên, do cách phát âm của xứ Nghệ mà thành Thông Lạng.
-
- Cạp cồi lồ ngô
- Ăn cùi (lõi) bắp, theo cách phát âm của người xứ Nghệ.
-
- Quế
- Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý (Quế chi) trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ.
-
- Niêu
- Nồi nhỏ bằng đất nung hoặc đồng, có nắp đậy, dùng để nấu nướng hoặc sắc thuốc. Niêu sắc thuốc thì có thêm cái vòi để rót thuốc.
-
- Trạng nguyên
- Danh hiệu của người đỗ cao nhất khoa thi Đình dưới thời phong kiến. Đỗ nhì là Bảng nhãn, đỗ ba là Thám hoa. Các trạng nguyên nổi tiếng nhất trong lịch sử nước ta có thể kể đến: Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh (Trạng Lường), Mạc Đĩnh Chi (Lưỡng quốc Trạng nguyên), Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình)... Ngoài ra, một số nhân vật trong lịch sử tuy không đạt danh hiệu này nhưng nhờ có tài năng lớn mà cũng được nhân dân tôn làm Trạng (Trạng Ăn Lê Như Hổ, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Trạng Quỳnh...)
-
- Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Lục Trạng.
-
- Nọc
- Nông cụ cầm tay bằng một khúc gỗ tròn có tra cán, dùng để xoi một lỗ trên đất ruộng khô rồi cấy cây lúa vào đó.
-
- Bạn vàng
- Bạn thân, bạn quý. Thường dùng để chỉ người yêu.
-
- Điểm chỉ
- In dấu các lóng ngón tay trỏ vào giấy. Ngày xưa những người không biết chữ, không thể ký tên, phải điểm chỉ vào giấy tờ.
Năm phút, mười phút, nửa giờ... Ông giáo ngẩng lên ngó mặt chị Dậu :
- Chị kia, sang đây tôi đọc cho nghe, rồi điểm chỉ vào!
(Tắt đèn - Ngô Tất Tố)
-
- Có sừng thì đừng có nanh
- Trâu bò có sừng là vũ khí lợi hại nhưng không có nanh. Có ưu thế về mặt này thì hỏng mặt kia.
-
- Huỳnh tinh
- Tên dân gian là cây mì tinh, miền Nam gọi là bình tinh, có vùng gọi là cây ngải hoặc cây nghệ tinh, một loại cây bụi gần giống gừng và nghệ, cho củ thon dài, nhọn, có vảy mỏng bao, nạc trắng, chứa nhiều bột. Bột huỳnh tinh được chế biến bằng cách cho củ vào cối giã nhuyễn, khuấy với nước sạch, xơ được vớt ra bằng tay và rây nhuyễn, dung dịch nước bột lỏng như sữa được để lắng xuống đáy vật chứa, kế đó chắt nước để ráo, rồi phơi khô trên vải. Nhân dân ta dùng bột huỳnh tinh để nấu chè hoặc làm những thức ăn tráng miệng.
-
- Trúc
- Một loại cây giống tre, mọc thành bụi, lá nhỏ và thưa hơn lá tre. Do trúc có dáng đẹp nên được trồng làm cây cảnh. Trong văn chương ngày xưa, trúc thường được dùng tượng trưng cho hình ảnh người quân tử, hoặc người con gái.
-
- Mai
- Còn gọi là mơ, một loại cây thân nhỏ, nhiều cành, rất phổ biến các nước Đông Á, nhất là Trung Quốc và Nhật Bản. Cây ra hoa vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân. Hoa mai nhỏ, mỗi hoa có năm cánh, thường hoa có màu trắng, mặc dù một số giống mai có thể cho hoa màu hồng hay đỏ sẫm. Trong văn học cổ, mai thường được dùng như một hình ảnh ước lệ, đại diện cho người phụ nữ. Lưu ý, cây mai này không phải là loại mai vàng của miền Nam nước ta.
-
- Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
-
- Chim di
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Chim di, hãy đóng góp cho chúng tôi.
-
- Nhân ngãi
- Người thương, người tình (từ cổ). Cũng nói nhân ngãi, ngỡi nhân.
-
- Đụn
- Đống cao (ví dụ: đụn lúa, đụn rơm).