Thân em như thể trái chanh
Lắt lẻo trên cành, nhiều kẻ ước ao
Ngẫu nhiên
-
-
Khen ai chỉ nẻo đưa đường
Khen ai chỉ nẻo đưa đường
Khen ai mối lái đưa chàng tới đây -
Thân em như tấm lụa điều
Thân em như tấm lụa điều
Đã đông nơi chuộng lại nhiều nơi thương -
Dù ai nói đông nói tây
Dù ai nói đông nói tây
Thì ta cũng vững như cây giữa rừng
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Thì ta cũng vững như kiềng ba chânDị bản
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
-
Xưa kia nó cũng là hoa
Xưa kia nó cũng là hoa
Bây giờ nó rách, nó ra bông tàn -
Nhọn hoắt như đầu cá nhồng
-
Tay bằng miệng, miệng bằng tay
-
Ngồi buồn thương mẹ nhớ cha
-
Xanh nhà hơn già đồng
Dị bản
Non nhà hơn già đồng
-
Có cổ mà không có đầu
-
Đầu đội chiếc lọng xanh
-
Ra đi mẹ đã dặn rồi
Ra đi mẹ đã dặn rồi
Khi đi thì một về đôi mẹ mừng -
Thân em như lọn nhang trần
-
Hai tay cầm đôi ống tơ
Hai tay cầm đôi ống tơ
Dù năm bảy mối cũng chờ mối nhau -
Nói thì đâm năm chém mười
Nói thì đâm năm chém mười
Đến khi tối trời chẳng dám ra sân -
Cha chết không lo bằng có gái to trong nhà
-
Ra về mới đến nửa đồng
Ra về mới đến nửa đồng
Nón che, tay ngoắt, trong lòng nhớ thương. -
Ai làm quên cá dưới ao
Ai làm quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát quên sao trên trời -
Thân em như hạt mưa rào
-
Mười phần thương mẹ ở nhà
Chú thích
-
- Kiềng
- Dụng cụ bằng sắt có ba chân, để đặt nồi, chảo lên khi nấu nướng.
-
- Cá nhồng
- Một loại cá săn mồi có cơ thể thuôn dài với các quai hàm khỏe, rất phàm ăn. Cá nhồng sống ngoài biển khơi, có thể bắt gặp ở dạng sống đơn độc hoặc thành bầy xung quanh các rạn san hô.
-
- Trà Nhiêu
- Tên một ngôi làng ở thôn Trà Đông, xã Duy Vinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Từ thế kỷ 16 đến 17, đây là nơi thông thương nổi tiếng nhờ có vị trí giao nhau thuận tiện của 3 nhánh sông Ly Ly, Thu Bồn và Trường Giang cùng đổ ra cửa biển Đại Chiêm.
-
- Tay bằng miệng, miệng bằng tay
- Nói được, làm được.
-
- Kỷ trà
- Bàn nhỏ bằng gỗ, thấp, thường được chạm trổ tinh vi. Người xưa khi uống trà thường đặt tách và ấm trà lên trên kỷ.
-
- Yếm
- Trang phục mặc trong của phụ nữ ngày xưa. Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, dùng để che ngực, thường được mặc chung với áo cánh và áo tứ thân. Trong ca dao ta thường gặp hình ảnh yếm đào hay yếm thắm, cùng có nghĩa là yếm màu đỏ.
-
- Lọng
- Đồ dùng để che phía trên đầu, gần giống cái dù nhưng kích thước lớn hơn, hình tròn, phẳng, có cán dài để cầm, thường được sử dụng trong nghi lễ hoặc đám rước, để thể hiện địa vị xã hội. Ngày xưa, lọng được sử dụng cho vua, quan, chức sắc; ngày nay, lọng chủ yếu được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo.
Kết cấu của lọng thường bao gồm một khung bằng tre nứa, có thể giương lên, xếp lại dễ dàng. Mặt trên lọng lợp bằng giấy phết sơn ta để chống thấm nước. Lọng còn thường được trang trí nhiều màu sắc và họa tiết tùy theo địa vị của người sử dụng.
-
- Bình vôi
- Ngày xưa nhân dân ta thường hay ăn trầu với cau và vôi. Bình vôi là dụng cụ bằng gốm hay kim loại để đựng vôi ăn trầu, đôi khi được chế tác rất tinh xảo, và tùy theo hình dạng mà cũng gọi là ống vôi.
-
- Nhang trần
- Loại nhang rẻ tiền, không có hiệu và không được gói trong bao giấy.
-
- Cha chết không lo bằng có gái to trong nhà
- Nhà có con gái lớn đến tuổi phát dục, cha mẹ thường lo con có quan hệ tình cảm trai gái để mang thai ngoài ý muốn và trước hôn nhân. Theo quan niệm cũ, đó là nỗi ô nhục của gia đình và dòng họ. Ngoài ra, cha mẹ cũng lo con gái lỡ thì.
-
- Đài các
- Từ chữ Hán đài 臺: lầu cao, và các 閣: tầng gác. Chỉ những chỗ cao sang, quyền quý.
-
- Bậu
- Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu (phương ngữ Nam Bộ).