Đôi ta bàn án giao lân
Mặt thì thấy mặt nằm gần thì không
Cũng vì ai kẻ đợi người trông
Thảm sầu, muốn nhảy xuống sông trầm mình
– Anh đừng đem dạ bất bình
Bỏ em ở lại một mình bơ vơ
Ngẫu nhiên
-
-
Khôn ngoan đến cửa quan mới biết
-
Lửa cháy còn đổ dầu thêm
Lửa cháy còn đổ dầu thêm
Kẻ can chưa được, người chêm mãi vào -
Khó khăn ở quán ở lều
Khó khăn ở quán ở lều
Bà cô ông cậu chẳng điều hỏi sao
Giàu sang ở bên nước Lào
Hùm tha rắn cắn, tìm vào cho mauDị bản
Khó khăn ở chợ leo teo
Ông cô, bà cậu chẳng điều hỏi sao
Giàu sang ở bên nước Lào
Hùm tha rắn cắn, tìm vào cho mau
-
Ai đã từng vào Nam ra Bắc
-
Chữ phú nằm trên chữ quý
-
Vật ngon đâu đến thứ ta
-
Cửa sài yên phận tớ
-
Nhà em cửa đóng then gài
Nhà em cửa đóng then gài
Anh vô không được ở ngoài khóc um -
Tam tinh, xoáy sọ thì chừa
Dị bản
Tam tinh khoá sọ thì chừa
Đốm đuôi sát chủ thì đưa vô lò
-
Ở cho phải phải phân phân
-
Bấy lâu phong kín nhụy đào
Bấy lâu phong kín nhụy đào
Chẳng cho gió lọt chớ nào quên anh. -
Năm bảy gươm trường, anh đây không sợ
Dị bản
-
Tình anh như nước dâng cao
Tình anh như nước dâng cao,
Tình em như dải lụa đào tẩm hươngDị bản
Tình anh như nước dâng trào,
Tình em như dải lụa đào tẩm hương
-
Ra về tay nắm lấy tay
Ra về tay nắm lấy tay
Mặt nhìn lấy mặt, lòng say lấy lòng -
Đêm qua đêm lạnh đêm lùng
-
Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên
Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên
-
Bấy lâu đông liễu tây đào
-
Ông già ngồi cạnh bờ sông
-
Anh ơi cố chí canh nông
Chú thích
-
- Giao lân
- Đi lại (giao) với hàng xóm láng giềng (lân).
-
- Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Sông Hương
- Tên con sông rất đẹp chảy ngang thành phố Huế và một số huyện của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tùy theo giai đoạn lịch sử, sông còn có các tên là Linh Giang, Kim Trà, Hương Trà... Ngoài ra, người xưa còn có những tên địa phương như sông Dinh, sông Yên Lục, sông Lô Dung... Sông Hương đã được đưa vào rất nhiều bài thơ, bài hát về Huế, đồng thời cùng với núi Ngự là hình ảnh tượng trưng cho vùng đất này.
-
- Ngự Bình
- Tên một hòn núi đất cao 103 m, còn gọi tắt là Núi Ngự, trước có tên là Hòn Mô hay Núi Bằng (Bằng Sơn), đến thời vua Gia Long thì đổi thành Ngự Bình. Núi ở bờ phải sông Hương (giữa Cồn Hến và Cồn Giã Viên), cách trung tâm thành phố Huế 4 km về phía Nam, hai bên có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Núi Ngự và sông Hương là hai biểu tượng của Huế, vì vậy Huế còn được gọi là vùng đất sông Hương - núi Ngự.
-
- Phụng loan
- Đôi vợ chồng hoặc tình cảm vợ chồng. Xem thêm chú thích phượng và loan.
-
- Trâu hạ địa
- Trâu bị bệnh lâu ngày.
-
- Cửa sài
- Từ chữ sài môn, nghĩa là cổng củi, cổng của nhà nghèo.
-
- Tớ
- Tôi tớ, đầy tớ.
-
- Nhà bạc
- Nhà lợp cỏ. Cách nói nhà bạc cửa gai (thường bị chạnh thành nhà bạt cửa gai) dùng để chỉ nhà nghèo.
-
- Tam tinh
- Xoáy mọc trên sống mũi, nằm giữa hai con mắt gia súc (trâu, bò, ngựa). Có nguồn cho rằng gia súc có xoáy tam tinh là có sức khỏe, nhưng cũng có nguồn lại nói đây là dấu hiệu của gia súc xấu, không nên mua hoặc nuôi.
-
- Đa
- Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 (cây nhiều rễ), “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.”
-
- Súng hai nòng
- Loại súng trường có hai ống, một ống hơi và buồng súng ghép song song nhau. Người ta cũng gọi súng này là súng hai lòng, nên cụ Nguyễn Đình Chiểu gọi là súng song tâm.
Các bậc sĩ nông công cổ, liều mang tai với súng song tâm
Mấy nơi tổng lý xã thôn, đều mang hại cùng cờ tam sắc
(Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh)
-
- Ba ngầu
- Hay ba ngù, hung dữ, lầm lì (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Căn nợ
- Món nợ nần của đôi trai gái từ kiếp trước phải trả trong kiếp này, theo giáo lí nhà Phật.
-
- Giấm thanh
- Thứ giấm có vị chua thanh, được làm từ rượu và các loại tinh bột hoặc trái cây.
-
- Đông liễu tây đào
- Cây liễu ở phía đông, cây đào ở phía tây. Cụm từ này thường dùng để chỉ đôi trai gái.
-
- Khóm
- Loại cây có họ hàng với dứa, ở mép lá có răng như gai nhọn, khi chín quả không có màu vàng như dứa. Ở một số vùng người ta cũng gọi chung khóm và dứa là một.
-
- Canh nông
- Làm ruộng (từ Hán Việt).
-
- Năn
- Cũng viết là năng, còn gọi là mã thầy, một loại cỏ mọc hoang trên những cánh đồng ngập nước. Phần củ ăn được, lá được dùng làm vị thuốc.
-
- Tằm
- Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao.