Trời nắng trưa, vai anh vác cuốc
Mình mẩy dính bùn, lem luốc tùm lum
Ngẫu nhiên
-
-
Em tham nơi quần rộng áo dài
-
Mắm ngon chi lắm cũng có giòi
Mắm ngon chi lắm cũng có giòi
-
Cái ngủ mày ngủ cho say
Cái ngủ mày ngủ cho say
Mẹ mày vất vả chân tay suốt ngày
Bắt được một giỏ cá đầy
Bán đi mua gạo cho mày nấu ăn -
Ngày mai phân rẽ bá tòng
-
Những người thắt đáy lưng ong
Những người thắt đáy lưng ong
Ðã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.
Những ngưòi béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày -
Ngơ ngơ như bò đội nón
-
Chớ thấy áo rách mà cười
-
Ai nắm tay đến tối
Ai nắm tay đến tối, ai gối tay đến sáng
-
Kê chớ lông già, cà chớ lông non
-
Khoai lang quá lứa khoai lang sùng
-
Chó già ăn vụng cá khô
Chó già ăn vụng cá khô
Ông chủ không thấy đổ hô cho mèo -
Mai lôn, chiều nhổ, không có cổ mà ăn
-
Chuyến đò còn nhớ nhau thay
-
Bán mặt cho đất bán lưng cho trời
Bán mặt cho đất bán lưng cho trời
-
Thầy làng không sang cũng trọng
-
Mẹ cha là biển là trời
Mẹ cha là biển là trời,
Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha -
Anh đừng thấy cá phụ canh
-
Có việc thì lo phay pháy, không việc thì ngáy kho kho
-
Nhất chờ, nhì đợi, tam mong
Chú thích
-
- Cày
- Nông cụ dùng sức kéo của trâu, bò hay của máy cày, để xúc và lật đất. Cày gồm hai bộ phận chính: Lưỡi cày (ban đầu làm bằng gỗ, sau bằng sắt hoặc thép) và bắp cày bằng gỗ. Nếu cày bằng trâu bò, lại có thêm gọng cày nối từ bắp cày chạy dài đến ách để gác lên vai trâu, bò.
-
- Bá tòng
- Cây bá (trắc) và cây tùng, hai loại cây sống rất lâu năm. Bá tòng vì thế tượng trưng cho tình nghĩa lâu bền. Đồng thời bá tòng cũng chỉ sự tu hành, vì hai loại cây này thường được trồng ở sân chùa.
-
- Kê
- Cây lương thực cùng họ với lúa, quả rất nhỏ, thường gọi là hạt, màu vàng, tập trung thành một bông dài.
-
- Lông
- Trồng (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Sùng
- Bị sâu, bị thối. Sùng cũng có nghĩa là sâu.
-
- Lôn
- Trồng (phương ngữ Bắc Trung Bộ).
-
- Chi
- Gì (phương ngữ Trung và Nam Bộ).
-
- Lọng
- Đồ dùng để che phía trên đầu, gần giống cái dù nhưng kích thước lớn hơn, hình tròn, phẳng, có cán dài để cầm, thường được sử dụng trong nghi lễ hoặc đám rước, để thể hiện địa vị xã hội. Ngày xưa, lọng được sử dụng cho vua, quan, chức sắc; ngày nay, lọng chủ yếu được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo.
Kết cấu của lọng thường bao gồm một khung bằng tre nứa, có thể giương lên, xếp lại dễ dàng. Mặt trên lọng lợp bằng giấy phết sơn ta để chống thấm nước. Lọng còn thường được trang trí nhiều màu sắc và họa tiết tùy theo địa vị của người sử dụng.
-
- Cỏ tranh
- Loại cỏ thân cao, sống lâu năm, có thân rễ lan dài, ăn sâu dưới đất. Lá mọc đứng, cứng, gân nổi, dáng lá hẹp dài, mép lá rất sắc, có thể cứa đứt tay. Ở nhiều vùng quê, nhân dân ta thường đánh (bện) cỏ tranh thành tấm lợp nhà. Tro của cỏ tranh có vị mặn, vì vậy thú rừng thường liếm tro cỏ tranh thay cho muối.
-
- Lo phay pháy
- Cũng như lo ngay ngáy (phương ngữ).