Rui kia chẳng nặng bằng mè
Dù kia chẳng mát bằng ô chàng này
Bây giờ thiếp gặp chàng đây
Chàng cho thiếp mượn ô này thiếp đi
Ngẫu nhiên
-
-
Cầm chài mà vãi vô nia
-
Lòng chim dạ cá
Lòng chim dạ cá
-
Lấy chồng chọn kẻ hay lo
-
Nuôi con khó nhọc đến giờ
-
Con mẻo, con mèo
-
Phượng hoàng đậu cành cây đa
-
Bằng trang sợi chỉ, thủ thỉ ngoài hè
-
Trăm năm đôi chữ tình duyên
Trăm năm đôi chữ tình duyên
Lấy lời vàng đá mà nguyền non sâu
Ngày thăm thẳm nhớ non sâu
Đêm khuya vò võ dạ sầu đăm đăm
Tiếc về đôi chữ tình thâm
Cho nên bối rối ruột tằm chẳng khuây
Tình thâm kẻ đấy người đây
Đã xe chỉ thắm còn lay cành sầu
Biết nhau xin nhớ lời nhau
Chơi hoa phải giữ lấy màu cho hoa. -
Tiếc công đan giỏ bỏ cà
-
Giật gấu vá vai
Giật gấu vá vai
-
Chó cùng cắn giậu
-
Khuyên anh ở lại chốn này
-
Còn trời còn nước còn non
Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưaDị bản
Còn trời, còn nước còn non
Còn có bạn rượu, anh còn say sưa
-
Đi tu Phật bắt ăn chay
Đi tu Phật bắt ăn chay
Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không -
Ai đi qua đò Do mới biết
-
Dù cho cha đánh mẹ treo
-
Yêu ai thì nói quá ưa
Yêu ai thì nói quá ưa
Ghét ai nói thiếu nói thừa như không -
Ru ri, ru rít, ru răm
Ru ri, ru rít, ru răm
Mẹ em buôn quýt ba năm chưa về -
Mật ngọt thì ruồi chết tươi
Mật ngọt thì ruồi chết tươi
Thuốc kia cay đắng thì người không ưa
Chú thích
-
- Mè
- Thanh tre, nứa hoặc gỗ nhỏ và dại được đặt dọc trên mái nhà để đỡ và buộc những tấm lợp hoặc ngói bên trên.
-
- Vãi
- Ném vung ra.
-
- Nia
- Dụng cụ đan bằng tre, hình tròn, có vành, rất nông, dùng để đựng và phơi nông sản (gạo, lúa)...
-
- Bá hộ
- Gọi tắt là bá, một phẩm hàm thời phong kiến cấp cho những nhà giàu có.
-
- Mần
- Làm (phương ngữ Trung và Nam Bộ). Như mần ăn, mần việc, đi mần...
-
- Hai thân
- Cha mẹ (từ Hán Việt song thân).
-
- Duối
- Loại cây mộc, cỡ trung bình, thân khúc khuỷu, nhiều cành chằng chịt, có mủ trắng. Lá duối ráp dùng làm giấy nhám làm nhẵn mặt gỗ. Duối được dùng làm vị thuốc và trồng trong chậu nhỏ làm cây cảnh.
-
- Phượng hoàng
- Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng (hay phụng) còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao.
-
- Đa
- Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 (cây nhiều rễ), “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.”
-
- Bằng trang
- Bằng cỡ, cỡ như.
-
- Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).
-
- Giậu
- Tấm tre nứa đan hoặc hàng cây nhỏ và rậm để ngăn sân vườn.
-
- Bển
- Bên đó (phương ngữ Nam Bộ).
-
- Ngầy
- Phiền nhiễu, bực mình.
-
- Thời
- Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời."
-
- Chùa Keo
- Còn gọi là chùa Keo Thượng, một ngôi chùa cổ (xây năm 1630) thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Chùa nguyên là chùa Keo có từ thời Lý (tên Nghiêm Quang tự, sau đổi thành Thần Quang tự), được xây ở hương Giao Thủy (tên Nôm là Keo), phủ Hà Thanh, thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Năm 1611, nước sông Hồng dâng lên làm ngập hương Giao Thủy nên một bộ phận dân làng buộc phải di cư lập làng mới Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình, xây chùa Keo mới gọi là chùa Keo Thượng (phân biệt với chùa Keo Hạ do nhóm di dân khác lập ở Nam Định cũng trong thời gian ấy). Chùa mang nét kiến trúc đặc sắc và tiêu biểu của thời Lê. Hàng năm vào các ngày đầu xuân và rằm tháng chín, nhân dân quanh vùng lại mở hội chùa rất đông vui.