Lấy chồng hay chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên con bò
Lấy chồng hay chữ là tiên
Dị bản
Có chồng biết chữ là tiên
Có chồng dốt nát là duyên con bò
Lấy chồng hay chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên con bò
Có chồng biết chữ là tiên
Có chồng dốt nát là duyên con bò
Người ta xẻ gỗ trên ngàn
Anh đây cưa lấy một nàng đương tơ
Cô đầu, cô đít, cô đuôi
Bố tôi sạt nghiệp ai nuôi cô đầu?
Cô đầu, cô đít, cô đuôi
Quan viên cạn túi, ai nuôi cô đầu?
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người công tử khăn điều vắt vai
Khăn điều ra nắng thì phai
Ra mưa thì nhạt, biết lấy ai bạn cùng?
Con út trút gia tài
Sợ đó không ưng, chứ đó ưng thì đây mừng biết mấy
Hễ anh thương rồi cha mẹ thấy cũng thương
Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than
Ngoài bụng thì tụng nam mô
Trong lòng thầm đặt một bồ dao găm
Ăn thì chị để phần tôi
Làm thì phần chị chứ tôi không làm
Lấy thịt đè người
Má miếng bầu coi lâu càng thắm
Mặt chữ điền xấu lắm ai ơi
Gió chiều nào che chiều ấy
Gió chiều nào theo chiều nấy
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông
(Tì bà - Bích Khê).
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là "sông Lau," tiếng người Chăm gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, vì chỗ con sông này đổ ra biển mọc rất nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất từ năm 1653.