Hệ thống chú thích
-
- Lựu Khê
- Tên một làng nay thuộc địa phận xã Yên Trường, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
-
- Lựu lê
- Cây lựu và cây lê, hình ảnh ước lệ thường thấy trong văn chương cổ, ở để chỉ người con gái.
-
- Lưu liên dạ hành
- Hay đi chơi đêm.
-
- Lưu Linh
- Tự là Bá Luân, người đất Bái, đời Tấn (Trung Quốc) trong nhóm Trúc lâm thất hiền (bảy người hiền trong rừng trúc). Ông dung mạo xấu xí, tính tình phóng khoáng, thích uống rượu và uống không biết say. Ta hay gọi những người nghiện rượu là "đệ tử của Lưu Linh" là vì vậy.
-
- Lưu Nguyễn
- Tên của hai nhân vật trong truyền thuyết Trung Quốc là Lưu Thần và Nguyễn Triệu đời nhà Hán, nhân tiết Đoan Dương (5-5 âm lịch) vào núi Thiên Thai hái thuốc, bị lạc lối về. Hai người tao ngộ tiên nữ, kết làm vợ chồng. Sống hạnh phúc được nửa năm thì hai chàng nhớ quê muốn về thăm. Các tiên nữ cho biết đây là cõi tiên, đã về trần là không thể trở lại, song vẫn không giữ được hai chàng. Lưu, Nguyễn hồi hương thấy quang cảnh khác hẳn xưa, thì ra họ xa nhà đã bảy đời. Buồn bã, hai người trở lại Thiên Thai thì không thấy tiên đâu nữa.
-
- Lưu Nguyễn
- Lưu Thần và Nguyễn Triệu. Xem chú thích Thiên Thai.
-
- Lưu niên
- Lâu năm (từ Hán Việt).
-
- Lưu thú
- Làm lính canh giữ đồn, thành trong một khoảng thời gian nhất định.
-
- Lưu thủy
- Nước chảy (từ Hán Việt). Cũng mang nghĩa bóng là thoáng qua như nước chảy, không sâu đậm, không gắn bó.
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân
(Truyện Kiều)
-
- Lưu tồn
- Còn lưu lại, giữ gìn được (từ Hán Việt).
-
- Lưu Vĩnh Phúc
- (1837 - 1917) Một quân nhân Trung Quốc thời kì nhà Thanh, là thủ lĩnh quân Cờ Đen, một toán quân nhân dân tộc thiểu số từ khu tự trị Quảng Tây, nam Trung Quốc, năm 1865 vượt biên giới vào Đại Nam (quốc hiệu nước ta thời Tự Đức) để cướp bóc dưới cờ hiệu màu đen. Về sau, Quân Cờ Đen thoả hiệp với cả triều đình Việt Nam và Trung Quốc, nhiều lần đánh Pháp trên đất Việt Nam.
Tuy có công gây tổn thương cho lực lượng viễn chinh của Pháp đang xâm chiếm Đông Dương, quân Cờ Đen xuất thân vẫn là toán quân cướp bóc, gây nhiều tổn hại cho thường dân. Võ tướng bấy giờ là Ông Ích Khiêm không đồng tình khi triều đình Huế mượn sức quân Cờ Đen chống Pháp. Trong giai thoại Vạ miệng, trích từ cuốn Hương giang cố sự (1986) của Nguyễn Đắc Xuân, về việc này, Ông Ích Khiêm có viết bài thơ sau:
Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu
Đến khi có giặc phải thuê Tàu
Từng phen võng giá mau chân nhẩy
Ðến buớc chông gai thấy mặt đâu
Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp
Trâu dê ngày hiến đứa răng bầu
Ai ôi hãy chống trời Nam lại
Kẻo nửa dân ta phải cạo đầu
-
- Lũy
- Công trình bảo vệ một vị trí, thường đắp bằng đất.
-
- Lụy
- Nước mắt (phương ngữ Nam Bộ, nói trại từ lệ).
-
- Lụy
- Nhẫn nhịn, chiều theo ý người khác vì cần nhờ vả họ.
-
- Lụy
- Chết.
-
- Lụy
- Chịu khốn khổ lây vì việc của người khác.
-
- Lũy Ba Đình, dinh ông Thượng
- So sánh sự đồ sộ của chiến lũy Ba Đình ở Nga Sơn với dinh thự của tổng đốc Thanh Hóa thời bấy giờ.
-
- Lũy Mĩ Quí
- Một cái lũy đắp bằng đất tại Mĩ Quí, Định Tường (một tỉnh cũ thuộc miền Tây Nam Bộ, nay là địa phận các tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp và Bến Tre) để ngăn giặc, sau khi Pháp chiếm được Sài Gòn và Biên Hoà. Lũy rất kiên cố, nhưng cũng bị thất thủ trong năm 1862.
-
- Lụy sa cúc dục
- Nước mắt rơi (lụy sa) vì nghĩ công nuôi nấng (cúc dục) của cha mẹ.
-
- Lũy Thầy
- Tên một công trình thành lũy quân sự tại khu vực ngày nay là Đồng Hới, Quảng Bình, bao gồm các lũy Trường Dục, Nhật Lệ, và Trường Sa. Hệ thống lũy này được Đào Duy Từ chỉ huy xây dựng vào thế kỉ 17 theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhằm mục đích bảo vệ Đàng Trong khỏi các cuộc tấn công của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. "Thầy" chính là danh xưng mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên gọi Đào Duy Từ để tỏ lòng kính trọng. Về sau nhân dân cũng theo đó mà gọi hệ thống thành lũy là lũy Thầy. Hiện nay lũy đã được công nhận là di tích cấp quốc gia.