Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây
Mỗi người một nợ cầm tay
Kẻ xưa nợ vợ, người nay nợ chồng
Chồng gì anh, vợ gì tôi
Dị bản
Mỗi người một nợ cầm tay
Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng
Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây
Mỗi người một nợ cầm tay
Kẻ xưa nợ vợ, người nay nợ chồng
Mỗi người một nợ cầm tay
Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng
Tay mang khăn gói sang sông
Mẹ gọi mặc mẹ, theo chồng cứ theo
Tay mang khăn gói sang sông
Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo
Ai kêu ai hú bên sông
Mẹ kêu con dạ, có chồng phải theo
Tay mang khăn gói sang sông
Cúi đầu lạy mẹ thương chồng phải đi
Tay mang khăn gói sang sông
Mẹ kêu mặc mẹ, thương chồng phải theo
Vai mang khăn gói theo chồng
Mẹ kêu con dạ, trở vào lạy mẹ cùng cha
Dì ruột thương cháu như con
Rủi mà mất mẹ, cháu còn cậy trông
Anh đi làm mướn nuôi ai
Cho áo anh rách, cho vai anh mòn?
– Anh đi làm mướn nuôi con
Áo rách mặc áo, vai mòn mặc vai
Mong manh rồi lại mong manh
Hỏi ai câu được cá hanh sông Truồi?
Nước sông Truồi vừa trong vừa mát
Gái sông Truồi vừa đẹp vừa ngoan
Xứ Truồi ruộng cả đồng sâu
Muốn ăn cơm trắng làm dâu xứ Truồi
Xứ Truồi ngọt mít thơm dâu
Anh đi làm rể ở lâu không về.
Cờ bạc canh đỏ canh đen
Nào ai có dại đem tiền vứt đi.
Cờ bạc anh đánh có chừng
Hết khăn đến áo dây lưng cùng quần.
Cờ bạc là bác thằng bần
Cửa nhà bán hết ra thân ăn mày
Cờ bạc là bác thằng bần
Ruộng nương bán hết xỏ chân vào cùm
Cờ bạc là bác thằng bần,
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm
Của đời cha mẹ để cho
Làm không ăn có của kho cũng rồi.
Xa xôi dịch lại cho gần
Làm thân con nhện mấy lần tơ vương
Xa xôi xích lại cho gần
Làm thân con nhện mấy lần giăng tơ
Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi.
Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu.
Chầu rày đã có trăng non
Để anh lên xuống có con em bồng
(Hát bài chòi)