Chim khôn chết mệt vì mồi
Người khôn chết mệt về lời nhỏ to
Lê Tư
Hiện đang làm việc và sinh sống tại TP Vũng Tàu.
Học chuyên ngành kinh tế và đang làm việc trong lĩnh vực kinh doanh, nhưng rất thích tìm hiểu những câu chuyện về văn hóa và lịch sử của Việt Nam cũng như thế giới.
Đặc biệt yêu thích Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du.
Bài đóng góp:
- 
        
        
        
    
    
- 
        
        
        
    
    Cái gì anh đổ vào bồCái gì anh đổ vào bồ? 
 Cái gì róc vỏ phơi khô để dành?
 Cái gì anh thả vào xanh?
 Cái gì lắt lẻo trên cành tốt tươi?
 Cái gì đi chín về mười?
 Cái gì sống đủ trên đời được tám trăm năm?
 Cái gì chung chiếu chung chăn?
 Cái gì chung bóng ông trăng trên trời?
 Lúa khô anh đổ vào bồ
 Cau già róc vỏ phơi khô để dành
 Con cá anh thả vào xanh
 Bông hoa lắt lẻo trên cành tốt tươi
 Cái gì đi chín về mười
 Ông Bành Tổ sống đủ trên đời được tám trăm năm
 Vợ chồng chung chiếu chung chăn
 Đôi ta chung bóng ông trăng trên trời
- 
        
        
        
    
    Cầm sào mà đợi nước lên
- 
        
        
        
    
    Tháng ba ngày tám rỗi ràng
- 
        
        
        
    
    Trời cao cao bấy không xa
- 
        
        
        
    
    Cơm không lành canh không ngọt
- 
        
        
        
    
    Mừng cây rồi lại mừng cànhMừng cây rồi lại mừng cành 
 Cây đức lắm chồi người đức lắm con
 Ba vuông sánh với bảy tròn
 Đời cha vinh hiển đời con sang giàu
- 
        
        
        
    
    Tối trăng còn hơn sáng saoTối trăng còn hơn sáng sao 
 Dẫu rằng núi lở còn cao hơn đồi
- 
        
        
        
    
    Tối trăng còn hơn sáng sao
- 
        
        
        
    
    Bàn tay ngón dài ngón vắn
- 
        
        
        
    
    Trăng bao nhiêu tuổi trăng giàTrăng bao nhiêu tuổi trăng già 
 Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non
 Trăng bao nhiêu tuổi trăng tròn
 Núi bao nhiêu tuổi núi còn trơ trơ
- 
        
        
        
    
    Đêm qua rót đọi dầu vơi
- 
        
        
        
    
    Bước đi ba bước lại ngừng
- 
        
        
        
    
    Con nhạn nó liệng lên mâyCon nhạn nó liệng lên mây 
 Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ
 Cái sự dầu dãi tự bấy đến giờ
 Kiếp phong trần chị Ba rũ đến bao giờ thì thôi
 Tiếc thay sắc nước hương trời
 Cớ làm sao phải lạc loài đến đây
 Ai làm cho nên nỗi nước non này
 Bông hoa sao héo dãi dầu với hoa
 Căm gan này nên giận trăng già
 Tình này ai tỏ cho ta nỗi lòng
- 
        
        
        
    
    Trăm hoa đua nở tháng giêngTrăm hoa đua nở tháng giêng 
 Có bông hoa cải nở riêng tháng mười
- 
        
        
        
    
    Tham vàng bỏ đống gạch đầyTham vàng bỏ đống gạch đầy 
 Vàng thì ăn hết gạch xây nên thành
- 
        
        
        
    
    Chiều chiều ra đứng cổng làng
- 
        
        
        
    
    Bước chân lên cửa tam quan
- 
        
        
        
    
    Bước đi ba bước lại ngừngBước đi ba bước lại ngừng 
 Đôi ta ở vậy cầm chừng đợi nhau
 Thương mình nên ốm nên đau
 Thuốc uống không mạnh biết làm sao ở đời
- 
        
        
        
    
    Bước lên phố chợ vui rồiBước lên phố chợ vui rồi 
 Vui làng vui họ nuốt lời anh trao
Chú thích
- 
    - Bồ
- Đồ cỡ lớn đựng thóc lúa, thường đan bằng tre.
 
- 
    - Xanh
- Dụng cụ để nấu, làm bằng đồng, có hai quai, giống cái chảo lớn nhưng đáy bằng chứ không cong.
 
- 
    - Bành Tổ
- Cũng có tên là Bành Khang, một nhân vật trong truyền thuyết Trung Quốc. Chuyện kể rằng một hôm Bành Khang nấu một nồi canh gà rừng dâng lên Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng ưng ý, liền bảo: "Nhà ngươi đếm trên mình gà có bao nhiều sợi lông màu sắc rực rỡ thì nhà ngươi sống được bấy nhiêu tuổi". Bành Khang tìm lại đống lông gà, đếm được 800 sợi, nhờ đó sống được 800 tuổi. 
Trong văn hóa Trung Quốc, ông Bành Tổ được xem là biểu tượng cho sự trường thọ. 
 
- 
    - Sào
- Gậy dài, thường bằng thân tre. Nhân dân ta thường dùng sào để hái trái cây trên cao hoặc đẩy thuyền đi ở vùng nước cạn.
 
- 
    - Rỗi ràng
- Rỗi rãi, rảnh rỗi.
 
- 
    - Mô
- Đâu, nào (phương ngữ Trung Bộ).
 
- 
    - Cửa lạch
- Hay cửa biển, nơi sông đổ ra biển.
 
- 
    - Để
- Ruồng bỏ.
 
- 
    - Tô mộc
- Còn gọi là vang, tô phượng, vang nhuộm, co vang, mạy vang, một loại cây thân gỗ nhỏ, rất rắn, có phần đỏ nâu ở phần lõi và trắng ở phần ngoài. Gỗ cây được dùng làm vị thuốc đông y, hay làm thuốc nhuộm đỏ. Ở nước ta gỗ tô mộc còn được sử dụng như một thành phần nấu nước rửa hài cốt khi cải táng. Phần lõi gỗ được dùng trong chạm khắc mĩ nghệ.
 
- 
    - Vắn
- Ngắn (từ cổ).
Tự biệt nhiều lời so vắn giấy 
 Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền
 (Bỏ vợ lẽ cảm tác - Nguyễn Công Trứ)
 
- 
    - Đọi
- Cái chén, cái bát (phương ngữ một số vùng ở Bắc Trung Bộ).
 
- 
    - Nguyệt hoa
- Cũng viết là hoa nguyệt (trăng hoa), chỉ chuyện trai gái yêu đương. Từ này có gốc từ nguyệt hạ hoa tiền (dưới trăng, trước hoa, những cảnh nên thơ mà trai gái hẹn hò để tình tự với nhau), nay thường dùng với nghĩa chê bai.
Cởi tình ra đếm, ra đong 
 Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa?
 (Tơ xuân - Huy Trụ)
 
- 
    - Nhạn
- Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu: Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn: Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én.
 
- 
    - Tơ vương
- Tơ bị dính vào nhau; thường được dùng trong văn chương để ví tình cảm yêu đương vương vấn, khó dứt bỏ.
 
- 
    - Sắc nước hương trời
- Chỉ người phụ nữ đẹp.
 
- 
    - Nguyệt Lão
- Đời nhà Đường, có một người tên là Vi Cố đi kén vợ, gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng. Anh ta hỏi, thì ông cụ bảo sách ấy chép tên những người lấy nhau và túi ấy đựng những sợi chỉ hồng (xích thằng) để buộc chân hai người phải lấy nhau, không sao gỡ ra được nữa. Anh ta hỏi phải lấy ai, thì ông cụ chỉ một đứa bé lên ba tuổi ở trong tay một người đàn bà chột mắt đem rau ra bán ở chợ mà bảo đó là vợ Vi Cố. Vi Cố giận, sai người đâm con bé ấy, nhưng nó chỉ bị thương. Mười bốn năm sau, quả nhiên Vi Cố lấy người con gái ấy. Chữ "nguyệt lão" chúng ta thường dịch nôm na là "trăng già." Hai chữ "Ông Tơ" và "Bà Nguyệt" cũng bởi tích ấy mà ra, dùng chỉ vị thần lo chuyện kết nhân duyên. Mối nhân duyên cũng do thế mà thường được gọi là "mối tơ." Xem thêm: Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong văn hóa dân gian.
 
- 
    - Bãi tràng
- Tan trường.
 
- 
    - Cửa tam quan
- Cũng gọi là cổng tam quan, mái tam quan, loại cổng có ba lối đi thường thấy ở chùa chiền theo lối kiến trúc truyền thống.
 






