Hò lên một tiếng cho cao
Có đứt em nối, có hao anh hầu
Tìm kiếm "cao biền"
-
-
Bà già đầu bạc tuổi cao
-
Bốn bên thành quách lũy cao
-
Hút điếu thuốc lào nâng cao sĩ diện
-
Làm chẳng nên lại trách trời cao
Làm chẳng nên lại trách trời cao
Đã vụng múa lại chê đất lệch -
Đầu thanh, cao tiền, thấp hậu, chẳng tậu thì sao
-
Chim có tổ, cáo có hang
Chim có tổ, cáo có hang
Người sao người lại bỏ làng mà đi? -
Thấp chui rào, cao lội nước
Thấp chui rào, cao lội nước
-
Miệng rộng, tai cao, dọc mũi dài
-
Khoai La Mạc, bạc Cao Điền, tiền Hạnh Lâm, mâm Văn Chấn, mấn Cát Ngạn
-
Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
-
Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
-
Ngó lên trời, trời cao gió thổi
Ngó lên trời, trời cao gió thổi
Em đứng gần chàng khó nổi làm quen
Bây giờ bó buộc tấm giấy trắng mực đen khó chùi. -
Trông lên trời, trời cao vằng vặc
Trông lên trời, trời cao vằng vặc
Ngó xuống đất, đất rộng thênh thang
Thương em nhưng sợ lỡ làng
Nhà cao cửa rộng, em đâu màng tới anh -
Sông Cầu đất thấp, nền cao
-
Trèo non, ước những non cao
Trèo non, ước những non cao
Anh đi đò dọc, ước ao sông dài -
Ngó lên trên trời, trời cao trăng tỏ
Ngó lên trên trời, trời cao trăng tỏ
Ngó xuống bụi cỏ, giọt nhỏ sương sa
Nào ai phân rẽ đôi ta?
Thiếp một đường chàng một nẻo, kêu ca không thấu trời -
Con cu bay thấp, liệng cao
-
Dưới có đất rộng, trên có trời cao
-
Có hát thì hát cho bổng, cho cao
Có hát thì hát cho bổng, cho cao
Cho gió lọt vào cho chúng chị nghe
Chị còn ngồi võng ngọn tre
Gió đưa cút kít chẳng nghe tiếng gì
Chú thích
-
- Dầu mè
- Còn gọi là dầu lai, đậu cọc rào, bã đậu, loài cây bụi lâu năm, có độc, hay được trồng làm hàng rào. Lá, dầu và nhựa cây được sử dụng trong một số bài thuốc Đông y giúp tan máu ứ, tiêu sưng, chống ngứa...
-
- Thuốc lào
- Theo học giả Đào Duy Anh, cây thuốc lào có lẽ từ Lào du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi như thế. Sách Vân Đài loại ngữ và Đồng Khánh dư địa chí gọi cây thuốc lào là tương tư thảo (cỏ nhớ thương), vì người nghiện thuốc lào mà hai, ba ngày không được hút thì trong người luôn cảm thấy bứt rứt khó chịu, trong đầu luôn luôn nghĩ đến một hơi thuốc, giống như nhớ người yêu lâu ngày không gặp. Thời xưa, ngoài "miếng trầu là đầu câu chuyện," thuốc lào cũng được đem ra để mời khách. Hút thuốc lào (cũng gọi là ăn thuốc lào) cần có công cụ riêng gọi là điếu.
Thuốc lào thường được đóng thành bánh để lưu trữ, gọi là bánh thuốc lào.
-
- La Mạc
- Một địa danh nay thuộc xã Thanh Liên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, có nghề trồng khoai từ lâu đời.
-
- Cao Điền
- Một địa danh nay thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vùng này có nghề truyền thống là trồng trầu không.
-
- Hạnh Lâm
- Tên một xã thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ngày xưa đây là một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, có nhiều sản vật.
-
- Văn Chấn
- Một làng nay thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An (phân biệt với huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái).
-
- Mấn
- Váy (phương ngữ Nghệ Tĩnh).
-
- Cát Ngạn
- Một địa danh nay thuộc xã Cát Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Cát Ngạn cũng là tên một tổng của Nghệ An ngày trước.
-
- Xóm Thủ
- Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Xóm Thủ, hãy đóng góp cho chúng tôi.
-
- Gá nghĩa
- Kết nghĩa (gá nghĩa vợ chồng, gá nghĩa anh em), tiếng miền Nam còn đọc trại thành gá ngãi.
-
- Sông Cầu
- Một địa danh thuộc tỉnh Phú Yên, nay là thị xã cực bắc của tỉnh. Tại đây trồng rất nhiều dừa và có nhiều sản vật từ dừa. Sông Cầu cũng có nhiều lễ hội tiêu biểu mang đậm bản sắc văn hoá địa phương như lễ hội cầu ngư, lễ hội Sông nước Tam Giang được tổ chức vào mồng 5 và mồng 6 tháng Giêng âm lịch...
-
- Cu cu
- Chim bồ câu (phương ngữ Trung Bộ).
-
- Cửa khuyết
- Cửa ra vào cung điện hoặc đình chùa. Theo Thiều Chửu:
闕 khuyết: Cái cổng hai từng. Làm hai cái đai ngoài cửa, trên làm cái lầu, ở giữa bỏ trống để làm lối đi gọi là "khuyết", cho nên gọi cửa to là "khuyết".
-
- Đà
- Đã (từ cổ, phương ngữ).